
Đã là người Việt Nam thì “mọi người đều thờ ông bà, mọi người đều thờ cúng tổ tiên”. Nói đến thờ cúng tổ tiên người ta nghĩ ngay đến cúng giỗ. Nhà nào nghèo và đơn chiếc lắm một năm cũng vài cái giỗ lớn : ông, bà, cha, mẹ . Lớn ra lại thêm bác, chú, cụ rồi tổ . Có giỗ chính, giỗ giúi. Mà giỗ nào thì cũng phải có đồ ăn bày lên bàn thờ, rồi vàng hương cúng quảy. Người ta sống nhiều vào ngày tết và ngày giỗ vì vào những dịp ấy là họ hàng mới có dịp tụ họp, để trước là cúng người quá cố, sau là ăn giỗ.
Người Việt có một tin tưởng là tổ tiên vẫn gần gũi với
con cháu và sẵn sàng tham gia vào mọi công việc của con cháu cũng như khi còn sống.
Họ có thể dùng quyền uy ở cõi âm để che chở giúp đỡ người sống. Việc cúng
giỗ chính là biểu lộ sự đối xử của con cháu với tổ tiên đã khuất như khi còn
sống. Trước cúng, sau ăn. Cỗ lớn thì tổ tiên mừng cho con cháu thành đạt; cỗ
nhỏ, chén cơm quả trứng, tổ tiên biết lòng thành của con cháu nghèo nàn mà giúp
đỡ.
Việc thờ cúng tổ
tiên của chung một họ diễn ra ở nhà thờ tổ và được giao cho một người gọi là
thừa tự trông nom săn sóc bàn thờ, đèn nhang cúng vái ngày thường và tổ chức
ngày giỗ để con cháu tụ họp đông đủ lễ tổ tiên, sau đó thừa huệ cỗ bàn. Giỗ to
nhỏ tùy theo ngôi vị trong gia tộc. Gần như người ta không quên một phần tử nào
trong gia tộc đã thất lộc. Ngay những người chết trẻ thường được coi là linh
thiêng nên thờ gọi là bà cô hay ông mãnh.
Bàn thờ tổ tiên
là nơi để tổ tiên về hưởng giỗ chạp, được đặt ở gian giữa nhà. Nếu là nhà thờ
tổ (từ đường) cũng phải đặt giữa nhà thờ họ và do tộc trưởng trông nom; nhiều
thì hàng ngày thắp nhang, không thì cũng phải các ngày giỗ chính cùng là sóc
vọng, tết nhất, hay những việc đột xuất khác như hiếu hỉ, khao vọng
Thực ra, không
phải chỉ có Việt Nam
là có đạo thờ ông bà. Tục thờ cúng tổ tiên ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên
và ở nhiều dân tộc khác thuộc Á châu cũng có . Riêng sự thờ cúng tổ tiên của
Việt Nam
đã được nâng lên thành một sinh hoạt tâm
linh, một đức tin vững chắc vào sự hiện hữu của tổ tiên đã khuất ở thế
giới bên kia.
Nguồn
gốc của đạo thờ tổ tiên
Sự thờ cúng tổ
tiên xuất phát từ một tin tưởng người ta có phần thể xác và tinh thần .
Phần tinh thần còn lại sau khi phần xác chết đi: thác là thể phách còn là tinh
anh. Sự tin tưởng vào linh hồn bất diệt và sống trong thế giới u minh, hay là
cõi âm là một tin tưởng có nguồn gốc sâu xa và rất phổ quát trong hầu hết các
dân tộc tiền sử.
Nguời tiền sử
đối xử với người chết như khi họ còn sống và tin rằng linh hồn họ luôn luôn
quanh quẩn cạnh người nhà để giúp đỡ và che chở cho những người ruột thịt.
Những linh hồn ấy sống trong cõi âm nhưng vẫn quanh quẩn ở dương thế dù với mắt
người không nhìn thấy được gọi là ma. Tục thờ linh hồn người chết này có rất
sớm và tạo nên bản sắc tín ngưỡng truyền thống của Việt Nam. Khi đã
phát triển thành một xã hội nông nghiệp định cư trên một địa bàn rộng lớn, thì
việc thờ cúng gia tiên cũng tiến hành song song với sự thành hình rộng rãi gia
tộc. Lúc ấy bắt đầu nảy sinh quyền hạn và bổn phận riêng của gia tộc cũng như
cộng đồng. Những sinh hoạt tâm linh cũng thay đổi theo chiều hướng cái nào
thích hợp với xã hội mới thì được chuyển hóa; cái nào không hợp thới sẽ bị đào
thải. Tục thờ cúng gia tiên là một chuyển hóa quan trọng từ tín ngưỡng thờ linh
hồn, và nó trở thành căn bản cho tổ chức gia đình, lớn hơn là họ hàng đối với
xã hội đã định cư.
Từ tín ngưỡng
thờ linh hồn sơ khai đã biến ra một thứ phải gọi là Ðạo thờ cúng tổ tiên với
đầy đủ đức tin và nghi thức đã làm nên sức mạnh tinh thần cho những thành phần
trong gia tộc mà xét về nhiều mặt tích cực cũng như tiêu cực phải gọi là yếu tố
căn bản của văn hoá Việt Nam.
Đạo thờ cúng tổ tiên và tâm thức người Việt
Thờ cúng tổ tiên
là tinh thần của gia tộc. Không có quan niệm tổ tiên khi chết vẫn quanh quẩn
sinh hoạt với những thành phần của gia tộc thì không thể lấy cái gì mà liên kết
những người cùng chung huyết thống lại với nhau; để mặc dầu vì hoàn cảnh làm ăn
hay gặp nghịch cảnh phải xa lìa đất tổ, họ hàng thì vẫn thấy xa là xa không
gian nhưng mình vẫn còn ràng buộc bằng tinh thần với họ hàng. Việc giữ giỗ của
họ lớn là do tộc trưởng đã đành, nhưng người ta đã không cấm mà còn khuyến
khích những người ở chi thứ vẫn giỗ những thân thuộc trực hệ và gần thì như là ông
bà cha mẹ chẳng may khuất núi. Ta thấy một hệ thống chân rết ở họ hàng từ gần
đến xa qua nhiều đời dù phải xa lìa, dù không biết mặt nhau, nhưng vẫn có cái
tình máu mủ để mà quan niệm rằng giọt máu đào hơn ao nước lã. Có khi đánh nhau
vỡ đầu đấy mà khi nhận ra biết là có họ đánh nhau vỡ đầu mới biết anh em thì
thôi chín bỏ làm mười, thương yêu nhau vì cùng là con cháu một tổ sinh ra.
Tổ chức gia tộc
với nhiều thế hệ ở chung với nhau trong một địa bàn với nhiều nhà liên kết
trong một khuôn viên có tường hay hàng rào kiên cố bao bọc. Những họ mạc này
sống qua nhiều đời và luôn giữ dây thân tộc dù có phải vì lý do loạn lạc hay
sinh kế mà không thể sống quây quần với nhau. Những tụ cư của một đại gia đình
như thế, bước đầu vì lý do an ninh khiến những người định cư phải sống gần nhau
để bảo vệ chống lại thú dữ hoặc trộm cướp. Khi ở đồng bằng hết thú dữ thì là
giặc cướp. Ðại gia đình phát triển lớn với khoảng năm đời chung sống, cùng với
những người giúp việc có thể đông đến vài trăm người, đủ để thành một ấp lớn. Nền luân lý gia đình chính là pháp luật cho
mọi người trong tập đoàn ấy tuân theo mà cư xử. Nền luân lý gia đình ấy chủ yếu
là giáo dục con trẻ trong gia đình, xa là trong họ noi theo đức độ của tổ tiên
để không có những hành vi gọi là làm điếm nhục gia phong, đứng về mặt tiêu cực;
còn tích cực thì phải học hành, nếu là họ có văn học, mà phần lớn thì họ văn
học vốn là tiêu biểu để mọi người dân vươn tới, thì con cháu phải lo học hành,
thi đỗ làm quan, khiến vẻ vang cho họ và nối chí tổ tiên đã có thời thịnh đạt.
Với tổ chức gia
tộc và nền luân lý chủ ở gìn giữ công đức tổ tiên, các thành phần trong gia
đình mà lỡ trong họ có người làm điều trái thì tự mình là con cháu xấu hổ,
không dám nhìn ai. Sự gìn giữ hương khói của một gia tộc cũng quan trọng như gìn
giữ những thành phần của gia tộc còn sống. xảy cha còn chú, xảy mẹ bú dì. Trong
họ phải đùm bọc nhau sao để đừng có việc thoát ly gia đình, xa dời họ hàng , làng
mạc. Người ta rất sợ cảnh tha phương cầu thực dù có thể nhờ đấy mà làm ăn khấm
khá giàu có hơn khi còn ở lại làng gần họ hàng. Nhưng người ta vẫn có một thôi
thúc tình cảm để sao cũng phải sống gần họ hàng, ít ra thì ngắn ngày và một khi
thất lộc đi rồi thì sao cho được chôn ở gần phần mộ tổ tiên để lại được gần gũi
nhau trong một thế giới khác .
Gia tộc không
thể bền vững nếu không có tổ tiên làm sợi dây liên kết ràng buộc người sống với
người chết để cùng mưu hạnh phúc cho nhau. Tổ tiên được thờ cúng như khi còn
sinh tiền để gây phúc cho con cháu. Do đấy gia đình có nhiệm vụ nối dài giòng
giống với tương lai rực rỡ. Các phần tử trong gia đình trong khi thi hành các
lễ nghi đối với tổ tiên thì sẽ nghĩ tới tương lai mình cũng không bị lìa xa gia
tộc khi chết, cho nên nỗi đau đớn nhất của người ta là không có người tiếp nối
gia tộc, hay là không có hậu
Tình cảm đã được
nâng lên như một bổn phận là chữ Hiếu. Không có lòng hiếu người ta không
lấy gì để liên kết gia đình. Ở lòng hiếu thảo không thể có sự miễn cưỡng hay
giả trá mà tình cảm gia đình bền vững được. Cha hiền
từ và con thì hiếu mới giữ được tình cảm tốt đẹp của gia đình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét