Hà Mạnh Khoa
Ở
khu vực Bắc Trung Bộ, trong đồng bằng Thanh Hoá hệ thống sông Mã (gồm
sông Mã, sông Lương (sông Chu)) thì sông Mã là sông lớn nhất. Vì thế
người ta thường gọi đồng bằng Thanh Hoá là đồng bằng sông Mã. Trên vùng
đất đó, hàng chục vạn năm về trước đã có con người cư trú và chính họ
những người khai phá vùng đất còn hoang sơ thành những cánh đồng trù
phú, tạo lập nên những tụ điểm dân cư đông đúc, sầm uất. Đó là những
cộng đồng dân cư đặt nền móng cho sự ra đời và hình thành các làng xã
đầu tiên trong lịch sử. Sự hình thành của làng xã ở đồng bằng sông Mã
trong quá trình phát triển có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chính
từ đó đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng về kinh tế, văn hóa...
trong các làng xã.
1. Sự hình thành tự nhiên
Vùng
đồng bằng sông Mã là một trong những nơi đầu tiên phát hiện ra các dấu
vết người nguyên thuỷ - người vượn ở Việt Nam. Năm 1960, tại địa điểm
núi Đọ (nay thuộc xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hoá), cách
thành phố Thanh Hoá 7km; tiếp sau đó vào những năm 70 của thế kỷ 20 cùng
với núi Đọ, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy ở núi Nuông (thuộc
xã Định Thành, Định Hoà, huyện Thiệu Hoá), núi Quan Yên (xã Định Công,
huyện Thiệu Hoá)… những công cụ bằng đá mang dấu ấn chế tác bởi bàn tay
con người. Căn cứ vào địa hình, hiện trạng… các nhà khảo cổ học đã khẳng
định những địa điểm đó vừa là di chỉ - xưởng, vừa là nơi cư trú của
người nguyên thuỷ ở thời kỳ đồ đá cũ cách ngày nay khoảng 30 - 40 vạn
năm1. Như vậy vào thời tiền sử đồng bằng sông Mã đã có con người cư trú.
Nhưng
bước đột phá cơ bản nhất là vào hậu kỳ thời đại đá mới cách ngày nay
khoảng 6.000 - 7.000 năm, khi đồng bằng sông Mã đã hình thành tương đối
ổn định. Những di tích khảo cổ ở Đa Bút (Vĩnh Tân - Vĩnh Lộc), cồn Cổ
ngựa (Hà Lĩnh - Hà Trung, gò Trũng (Phú Lộc - Hậu Lộc)... đã minh chứng
các cộng đồng dân cư đã quy tụ không chỉ ở các vùng đất ven sông lớn mà
còn lan tới cả vùng ven biển.
Đặc
biệt đến thời kỳ đồ đồng mà đỉnh cao là “văn hoá Đông Sơn”, cư dân vùng
đồng bằng sông Mã đã có những bước phát triển vượt bậc, cốt lõi mở đầu
cho quá trình hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang của các Vua
Hùng. Các di tích văn hoá Đông Sơn ở vùng đồng bằng được phát hiện
thường phân bố ven các sông như sông Mã, sông Chu hoặc ven các chi lưu
của các sông này. Các di chỉ này thường tập trung ở các gò đất cao mà
nhân dân địa phương thường gọi là Cồn hay Bái hoặc Đồng hay Mả (tên
thường gọi của dân gian). Một số di tích khác nằm ở chân núi đá vôi nổi
lên giữa đồng bằng. Đặc biệt ở hợp lưu sông Mã, sông Chu, thì các di
tích này tập trung tương đối dày đặc. Sự phân bố đông đúc của các di
tích thuộc văn hóa Đông Sơn ở vùng đồng bằng đã phần nào phản ánh tính
làm chủ đồng bằng của những người Việt cổ ở Thanh Hoá với những làng
định cư lâu đời hang ngàn năm như thuộc các huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa,
Hoằng Hóa, Yên Định…
Theo
số liệu của bảng thống kê dưới đây (chắc chắn là chưa đầy đủ), với 85
các di tích thuộc nền văn hoá Đông Sơn được phát hiện trên đất Thanh
Hoá, là một trong những minh chứng khẳng định làng xã của đồng bằng sông
Mã đã ra đời và phát triển rất sớm. Các di chỉ khảo cổ ở Thiệu Dương,
Đông Sơn, Quỳ Chữ, núi Nấp…thuộc thời kỳ văn hoá Đông Sơn rộng hàng ngàn
m2 và có tầng văn hoá khá dày đã chứng tỏ đó là những kẻ, chiềng,
chạ…mà sau này gọi là làng, xóm, xã…đã xuất hiện từ lâu đời, định cư lâu
dài và không kém phần nhộn nhịp. Mật độ dân cư thời kỳ này khá cao.
Theo Hậu Hán thư vào đầu thời kỳ Bắc thuộc (thời kỳ cuối của văn hoá
Đông Sơn) quận Cửu Chân (cơ bản là địa bàn Thanh Hoá với trung tâm là
vùng đồng bằng sông Mã - HMK) có 35.743 hộ gồm 166.013 người. Từ các kết
quả của khảo cổ học, người ta đã tính toán các di chỉ ở Thiệu Dương,
Đông Sơn, Quỳ Chữ, núi Nấp, mỗi khu vực này có cư dân sinh sống mật độ
ít nhất vào khoảng 400 người/km2.
Dấu
ấn hình thành các làng xã từ buổi khai sơn, phá thạch còn in đậm trong
các ca dao, truyền thuyết dân gian lưu truyền đến tận ngày nay. Đó là ý
chí quật cường của con người đối diện với tự nhiên:
“Tre non cắm bãi đồng lầy
Non gan không đến chốn này làm chi”.
Là
những con người “khổng lồ” - những anh hùng khai sáng mở mang vùng đất.
Họ là những người gánh núi, đào sông, khai phá ruộng đồng, diệt chim
ác, trừ thú dữ… Chính họ đã xây dựng nên “làng” và luôn “hộ hành cho dân
làng” và được nhiều làng tôn làm “Thành hoàng” và mỗi người đều gắn với
một vùng đất của vùng đồng bằng sông Mã, như: ông Cõng đá vùng Tĩnh
Gia; ông Lau vùng Quảng Xương; ông Nưa vùng Nông Cống; ông Vồm, ông Go
vùng Đông Sơn; ông Nuông vùng Thiệu Hoá, Yên Định; ông Đẻn, ông Hà Rò,
ông Bưng vùng Hoằng Hoá...
(Đền Bà Triệu – Thanh Hoá. Nguồn: worldmatetravel.vn)
Theo
nhiều nhà nghiên cứu, từ “kẻ” là một trong những từ xuất hiện sớm nhất
để chỉ sự hình thành những làng cổ, những nơi quy tụ đông dân cư sớm
nhất của nước ta. “Kẻ” được dùng với tư cách là một đơn vị cư dân sơ
khai vào thời các Vua Hùng và gắn liền với một vật thể “tô tem” để trở
thành tên gọi chung cho một cộng đồng dân cư trên một địa bàn nhất định
mà đến nay vẫn còn tồn tại rất nhiều trong các tên gọi của các làng xã
đồng bằng Bắc Bộ và Thanh - Nghệ. Trong từ điển Việt - Bồ - La của
Alexan dre Rhodes, thì từ “kẻ”2 có hai nghĩa chính là:
- Người, hạng người, dân cư (kẻ chợ, kẻ quê, kẻ lành, kẻ dữ, kẻ sang, kẻ hèn…)
- Nơi chốn, quê quán (ở kẻ nào?)
Các
làng xã ở đồng bằng sông Mã, từ “kẻ” có rất nhiều và luôn gắn với một
từ đi kèm theo mà các nhà nghiên cứu cho là gắn với “tô tem” rất thuần
Việt và chưa có lời giải thích xuất xứ nào đủ sức thuyết phục:
"Trò Chiềng, vật Bộc, rối Si
Cơm đắp kẻ Lở, cơm thi kẻ Lào"
Cơm đắp kẻ Đún, cơm thi kẻ Đù".
Theo
điều tra khảo sát của Lê Kim Lữ trong Kỷ yếu hội thảo Văn hoá làng
Thanh Hoá, Sở Văn hoá Thông tin Thanh Hoá 1990, ở vùng đồng bằng sông Mã
còn bảo lưu được khoảng gần 120 làng có tên “kẻ” chiếm 24% trong tổ số
1.792 làng được điều tra. Ví dụ:
- Huyện Thọ Xuân: Kẻ Neo (nay thuộc xã Nam Giang); kẻ Căng
(nay thuộc xã Thọ Nguyên); Kẻ Đầm (nay thuộc xã Xuân Thiên); Kẻ Mía (nay
thuộc xã Thọ Diên); Kẻ Sộp (Sập), (nay thuộc xã Xuân Lập).
-
Huyện Triệu Sơn: Kẻ Đà (nay thuộc xã Thọ Dân); Kẻ Hào (nay thuộc xã Thọ
Phú); Kẻ Mốc (nay thuộc xã thị trấn Triệu Sơn); Kẻ Nưa (nay thuộc xã
Tân Ninh).
-
Huyện Thiệu Hoá: Kẻ Đô (nay thuộc xã Thiệu Hưng); Kẻ Đọ (nay thuộc xã
Thiệu Dương); Kẻ Rỵ, Kẻ Chè (nay thuộc xã Thiệu Trung); Kẻ Go (nay thuộc
xã Thiệu Châu)"
- Huyện Đông Sơn: kẻ Bôn (nay thuộc xã Đông Thanh); kẻ Rủn (nay thuộc xã Đông Khê); kẻ Mơ (nay thuộc xã Đông Xuân).
-
Huyện Hoằng Hoá: kẻ Tổ (nay thuộc xã Hoằng Quỳ); kẻ Đừng (nay thuộc xã
Hoằng Phú, Hoằng Quý); kẻ Quăng (nay thuộc xã Hoằng Lộc); kẻ Bưng (nay
thuộc xã Hoằng Sơn).
- Huyện Quảng Xương: kẻ Bùi (nay thuộc xã Quảng Giao); kẻ Mom (nay thuộc xã Quảng Nham).
Phần
lớn các di tích thuộc Văn hoá Đông Sơn mà sau này được phát hiện đều
rất gần kề với những vùng đất thuộc các “kẻ” đã nêu như trên. Cũng như ở
vùng đồng bằng Bắc Bộ, “kẻ” ở vùng đồng bằng sông Mã (Bắc Trung Bộ) là
từ chỉ đơn vị cư trú có trước làng, thôn, hương, giáp, xã...Mặc dù đến
hiện nay “kẻ” đã biến đổi theo thời gian, bị Hán hoá và sự phát triển
của xã hội, nhưng những dấu ấn của “kẻ” qua các tư liệu lịch sử thành
văn, nhất là trong tâm thức của nhân dân qua các thơ ca, hò vè, truyện
kể dân gian…là một trong những minh chứng sống động về quá trình hình
thành và phát triển của làng xã ở vùng đồng bằng sông Mã trong thời kỳ
các Vua Hùng.
Nếu
như “kẻ” là một dấu ấn để góp phần xác định tụ điểm đông cư dân quy tụ
có tổ chức đầu tiên thì: xá, phường, hương, trang, ấp, làng, xã,
thôn...là những tên gọi các đơn vị cơ sở theo tiến trình phát triển của
xã hội. Đến nay (theo số liệu điều tra năm 1990), số làng ở Thanh Hoá có
tên là “kẻ” chiếm tỉ lệ 24%; là “xá” chiếm tỉ lệ 5%...3. Tuy
nhiên trong thực tế các từ dùng chỉ các đơn vị này luôn biến động và
thường được thay đổi theo một yêu cầu của cộng đồng làng xã hay của
chính quyền Nhà nước cao hơn. Nhưng những tên cũ vẫn có một quá trình
hình thành và thời gian tồn tại không phải là ngắn...Và đó là một trong
những dấu ấn cực kỳ quan trọng để tìm về những làng cổ trong lịch sử.
2. Sự hình thành do nhu cầu phát triển
Vùng
đồng bằng sông Mã, các làng xã mới được lập ra phần lớn là do nhu cầu
ruộng đất để canh tác. Mặc dù trong tâm chí của những người trước lúc ra
đi đến vùng đất mới luôn trĩu nặng nỗi lòng gắn bó với mảnh đất, họ
hàng làng quê mà các thế hệ cha ông đẫ sinh sống:
"Gà khôn thì chớ đẻ hoang
Trai khôn thì chớ bỏ làng mà đi"
và biết trước bao khó khăn của tự nhiên và xã hội đang chờ đón họ.
Nhưng
sự phát triển của dân số, khiến cho vùng đất ban đầu trở nên chật hẹp.
Nó không đáp ứng được những đòi hỏi của cuộc sống và sinh hoạt tối thiểu
của các gia đình trong cộng đồng làng xã mà quan trọng hơn là quỹ đất
để sản xuất đảm bảo cuộc sống ngày càng bị thu hẹp. Vì vậy một yêu cầu
tất yếu xảy ra là phải khai phá vùng đất mới để sinh cơ lập nghiệp.
Ngoài ra một lý do khác là trong cuộc sống thường nhật sự nảy sinh mâu
thuẫn giữa các dòng họ, trong cùng dòng tộc...và ngay cả trong một gia
đình, khiến một số gia đình, một số cá nhân đã rời bỏ mảnh đất từng gắn
bó ra đi tìm vùng đất mới để sinh sống. Và cũng không hiếm trường hợp
các hưu quan, trí sĩ từ ý tưởng ban đầu lập riêng cho mình một khoảng
trời riêng rồi đem theo con cháu, đầy tớ phục vụ và dần dần phát triển
thành làng xã.
Làng di dân mà ngày nay các nhà nghiên cứu làng xã Thanh Hóa4,
cho là sớm nhất là vào thế kỷ VIII thuộc huyện Thiệu Hoá ngày nay. Các
làng này do Khương Công Phụ lập ra. Khương Công Phụ người làng Tổ Kiệm
(còn gọi là Tổ Kiệm phường) nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện
Thiệu Hoá. Ông đậu Tiến sĩ đời Đường Duệ tông, làm quan ở kinh đô Trường
An (Trung Quốc). Sau khi về quê, Khương Công Phụ, thấy dân quê ruộng
đất ít, chật hẹp nên di dân vượt sông Cầu Chày lập ra ba làng: làng
Đường, làng Trung, làng Hưng nay thuộc xã Thiệu Giang, huyện Thiệu Hoá.
Năm
983, sau khi chinh phạt Chiêm Thành về, Lê Hoàn đã tiến hành cho "đào
kênh từ Đồng Cổ đến Bà Hoà" tức là "từ huyện Yên Định đến huyện Tĩnh Gia
ngày nay để mở mang giao thông thuỷ trong nội địa. Công trình này đã
tạo nên những bước phát triển kinh tế - xã hội không nhỏ cho vùng đất
đồng bằng sông Mã, trong đó có việc khai khẩn đất đai, lập làng xóm mới"5.
Một số làng ở huyện Đông Sơn đến nay vẫn lưu truyền về sự ra đời của
một số làng được thành lập ven hệ thống sông đó. Truyền thuyết còn lưu
lại ở làng Yên Trường, xã Đông Yên cho biết "Từ thời Tiền Lê làng có con
sông do nhà Lê khai đào. Con sông đó chảy qua các xóm Lai, xóm Nháng,
xóm Trường đến Dõng ốc...Con sông đó là hệ thống tưới tiêu cho cả vùng"
và đến thời Lê (thế kỷ XV) " Hai ông họ Lê là Lê Văn Bình, Lê Văn Lộc là
nghĩa quân của Lê Lợi, sau khi đất nước được giải phóng đã về sinh cơ
lập nghiệp ở vùng đất naỳ và được coi là Ông tổ dòng họ Lê. Sau đó các
dòng họ như họ Doãn, họ Nguyễn Hữu, Nguyễn Đăng, Nguyễn Trung, Lê
Xuân...về sinh cơ lập nghiệp".
Cuối
thế kỷ XIV, trước khi động An Tôn (nay thuộc địa phận hai xã Vĩnh Long
và Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc) được Hồ Quý Ly chọn dựng Kinh đô, vùng này
còn rất thưa thớt, được đánh giá là "nơi đầu non cuối nước, hợp với
loạn mà không hợp với trị"6. Trong quá trình xây dựng kinh đô
một số làng xung quanh khu vực này phải di chuyển, nhưng sau đó cũng có
một số làng mới được xác lập. Theo gia phả của họ Phạm ở làng Cẩm Hoàng
(nay là xã Vĩnh Quang, cách thành Tây Đô hơn 3km), đây vốn là vùng bãi
rậm rạp, hoang vu. Đến đầu thế kỷ XV, nơi đây đã trở thành vùng dân cư
đông đúc với hai thôn là Thái thôn và Giáp Hạ. Làng Bái Xuân thuộc xã
Vĩnh Phúc (cách thành Tây Đô 6 km) được lập nên bởi 4 người phụ nữ có
tên là bà Diệm, bà Oanh, bà Ỷ, bà Tóp. Họ vốn người làng Cổ Điệp? đến
vùng này trồng hoa "phục vụ cho triều đình" sau đó lập thành làng. Vì
thế còn gọi tên làng là Bái Xuân Hoa7.
Ngoài
ra ở Thọ Sơn Trang (nay là làng Thọ Đồn, xã Vĩnh Yên) thì làng này có
nguồn gốc khởi đầu từ những người lính mang họ Phạm, họ Nguyễn, họ Lưu
đóng quân ở khu vực kinh thành Tây Đô. Sau khi chiến tranh kết thúc họ
đã về đây dựng làng lập ấp8. Trong Phả tích thần làng Ngọc
Nhị (nay thuộc xã Quảng Vọng, huyện Quảng Xương), do Hàn lâm viện, Đại
học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572) và Lễ bộ Thượng
thư Nguyễn Hiền phụng sao năm Vĩnh Tộ 3 (1621) có ghi tóm tắt như sau:
"Đến năm 30 tuổi, vợ chồng ông Nguyễn Nghiêm, vợ là Phạm Thị Toàn sinh
hạ được một người con trai, đặt tên là Hồng. Năm ông Hồng 21 tuổi theo
vua Lý đánh giặc phương Nam. Sau khi chiến thắng trở về, ông chiêu mộ
dân các nơi đến đây khai hoang lập ấp. Sau khi ông mất, dân làng lập đến
thờ, muôn đời hương khói"9.
Đến
những năm đầu thế kỷ XX, vùng đồng bằng Sông Mã vẫn còn những vùng đất
hoang vắng và thu hút cư dân các nơi khác đến sinh cơ lập nghiệp và xây
dựng những thôn làng mới. Ví dụ như: Làng Ngọc Sơn, xã Định Tường, huyện
Thiệu Hoá được thành lập năm 1925, do những bất đồng trong quan hệ giữa
một nhóm người mà đã tách ra lập một làng riêng. Đông Sơn là vùng đất
được nhiều cư dân nơi khác chọn làm nơi sinh cơ lập nghiệp. Làng Chính
Kết, xã Đông Vinh trước năm 1930 là một vùng hoang vắng. Những người đầu
tiên khai phá là dân từ các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Họ lập
thành trại. Sau đó dân các xóm của làng Mai Chữ như xóm Trong, xóm
Ngoài cùng đến khai phá và lập nên làng Chính Kết vào những năm 1950 số
hộ đã lên tới 30 hộ. Làng Thắng Sơn xã Đông Hưng trước năm 1941 là vùng
hoang vu có tên là ấp Hàn Tiệp, sau đó một số cư dân từ Nam Định, Nghệ
An và huyện Hoằng Hoá đến làm ăn sinh sống, đến năm 1944 đã có từ 50 -
70 hộ và năm 1948 được mang tên là ấp Phú Sơn.
3. Do các vương hầu quý tộc, quan lại lập
Thời
Trần, một số làng đến nay vẫn lưu truyền nguồn gốc của làng là do các
vương hầu, quý tộc nhà Trần mộ dân khẩn hoang mà lập nên. Như vùng Đan
Nê (thuộc huyện Yên Định) là do Trần Thắng - Phò mã Đô uý lập ra; làng
Phùng Cầu (thuộc xã Thiệu Thịnh, huyện Thiệu Hoá) là do Công chúa Phương
Dung; Làng Văn Tập (thuộc xã Thiệu Vận, huyện Thiệu Hoá) do cung phi
thời Trần bỏ tiền mộ dân khai hoang lập thành10. Thời Trần
vào năm 1322, Doãn Bằng Hài quê ở Cổ Định (nay thuộc xã Tân Ninh, huyện
Triệu Sơn) là một quan lại cao cấp của triều đình được vua Trần Minh
tông cử đi sứ. Sau khi về nước ông được vua ban 100 mẫu ruộng ở vùng An
Hoạch (nay thuộc huyện Đông Sơn). Ông giao cho con trai là Doãn Hằng
chiêu mộ dân đến lập ấp mới ở vùng này lấy tên là Doãn xá (nay thuộc các
xã Đông Xuân, Đông Thịnh, huyện Đông Sơn):
"Triều đình công cử Ngài đi
Do tài ứng phó nên chi việc thành
Tước hầu vua mới gia phong
Thêm trăm mẫu đất thưởng công cho Ngài
Ông Hằng là con thứ hai
Nhận ruộng lập ấp nên thời Doãn trang
Nay là Doãn xá Đông San
Toàn người họ Doãn, một làng khá đông".
Dưới
triều Lê sơ, Thanh Hoá là đất bản bộ, là đất tổ của vua Lê, số lượng
các công thần ở Thanh Hoá rất đông. Chính vì vậy, ngay tại Thanh Hoá,
một phần lớn ruộng đất được nhà nước dùng để ban thưởng cho các quan
lại. Một vùng Lương Giang rộng lớn thuộc các vùng của huyện Đông Sơn,
Thụy Nguyên lúc bấy giờ được vua Lê ban thưởng cho các quan lại có công
trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh.Ngô Khiết là một danh tướng, sau
khi qua đời "được truy tặng 500 mẫu tư điền ở Lương Giang (Thanh Hoá) và
Bạch Hạc (Việt Trì)"11. Trong vùng "lộc điền" được vua Lê phong tặng đó có không ít ruộng đất bị bỏ hoang hoá.
Các
quan lại đã tận dụng quyền thế của mình, chiêu tập dân chúng khai phá
và dần dần thành lập các trại, ấp mở đầu cho việc thành lập các làng xã
về sau. Trên đất Đông Sơn lúc bấy giờ theo gia phả dòng họ Nguyễn Nhữ
Soạn, thì sau khi ông được vua cho phép "ở đâu thì lập trại ấp ở đó",
ông đã chiêu tập được 10 hộ dân nghèo về quê mẹ là thôn Cừ Nột (thuộc xã
Mộc Nhuận, huyện Đông Sơn) để khẩn hoang12. Nguyễn Chích được cấp 100 mẫu ruộng ở quê nhà. (Theo bia Quốc triều tá mệnh công thần).
(Mộ Đinh Liệt, khai quốc công thần nhà Hậu Lê. Nguồn: nhomai.vn)
Đinh
Liệt "khai quốc công thần" của nhà Lê khi được ban "lộc điền", đã cho
con là Đinh Công Đột vào vùng Nông Cống chọn đất "lộc điền". Đầu tiên
ông chọn vùng đất Cầu Quan (nay thuộc xã Yên Thái, Trường Giang)...sau
lại tìm đến vùng Đông Cao. Cả vùng đó là đất "ân tứ" của vua Lê ban cho
dòng họ Đinh và là "mảnh trời riêng" đến thời Nguyễn mới phải chịu các
nghĩa vụ đối với nhà nước như các làng khác trong vùng.
Gia
phả họ Nguyễn ở Hoằng Lộc cho biết sự hình thành xã Bột Trung (nay
thuộc xã Hoằng Tân) như sau: "Trong gia tộc họ Nguyễn có một người con
gái được tuyển vào làm phi tần trong cung vua đời Lê Thánh Tông. Cuối
đời bà được vua cho phép "hoàn tông" về quê. Bà đã mộ dân hai làng Bột
Thượng, Bột Thái (nay thuộc xã Hoằng Lộc) và làng Hành Vĩ (nay thuộc xã
Hoằng Thịnh, Hoằng Thái, huyện Hoằng Hóa) xuống khai khẩn vùng đất hoang
ven cửa Lạch Hới lập nên làng Bột Trung" (nay thuộc xã Hoằng Tân)13.
Thần
tích thôn Dự Quần (nay thuộc xã Quảng Ninh, huyện Quảng Xương) cho
biết: "Ông Lê Đăng Cử, quê ở Tuần La (nay thuộc xã Trường Trung, huyện
Nông Công), đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1676), đời vua Lê Hy tông. Sau
khi từ quan, nghỉ hưu, ông đã chiêu tập dân lập thành thôn ấp này. Sau
khi ông mất, nhân dân cảm ơn công đức lập đền thờ ông".
Gia
phả dòng họ Nguyễn (Nguyễn Hiệu (1674 - 1735), Tham tụng đời chúa Trịnh
Giang, quờ ở xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn), cho biết: “Vào đời vua
Lê Thánh Tông, tổ tiên vốn là dòng họ Hà Thọ Lộc. Hai ông Hà Thiện, Hà
Thọ, từ quê Yên Định đến đây thấy vùng đất này bỏ hoang hoá, lau sậy um
tùm, bèn xin đưa dân đến khai hoang lập nghiệp, lập nên làng Biển Nộn.
Nhà vua cử quan là Lê Lan Khanh đến khám nghiệm và cấp cho. Hai anh em
mộ thêm 15 người nữa đến khai khẩn. Sau một thời gian đã khai phá được
270 mẫu ruộng và lập nên xã Lan Khê “14.
4. Do nhà nước thực hiện chính sách khai hoang, lập đồn điền.
Nhằm
mục đích mở rộng diện tích canh tác, nhà Lê ngay từ khi mới thành lập
đã rất chú trọng đến công cuộc khai hoang phục hóa, lập thêm nhiều sở
đồn điền ở các nơi. Nhiều trang trại ở ven biển huyện Hoằng Hoá trở
thành những xóm làng sầm uất như ngày nay là do khai hoang phục hoá lập
thành trang ấp như trang Nặc Tài (nay thuộc xã Hoằng Hà); trang Hải
Triều (nay thuộc xã Hoằng Phong); trang Liên Châu (nay thuộc xã Hoằng
Châu)…
Từ
chính sách lập đồn điền của Nhà nước phong kiến Lê sơ, trên đất Thanh
Hoá hình thành nhiều đồn điền mới bên cạnh những đồn điền cũ đã có từ
trước. Vào thời kỳ này các sở đồn điền do Võ Uy và các con cháu ông lập
ra ở Thanh Hoá có tới 38 cơ sở và chủ yếu thuộc vùng đồng bằng ở Nông
Cống: 14 trang; Vĩnh Lộc: 4 trang; Yên Định: 5 trang; Hậu Lộc 5 trang;
Ngọc Sơn 5 trang… Ngay ở Đông Sơn, con cháu ông lập đồn điền Tĩnh Gia ở
tổng Lê Nguyễn (là tổng Thanh Hoá, thuộc huyện Đông Sơn). Ngoài ra còn
có những xã thôn mới thành lập trên cơ sở những đồn điền do triều đình
cho phép công thần chiêu mộ dân khai hoang. Xã Mai Xuyên (thuộc tổng
Thanh Hoá, huyện Đông Sơn) được thành lập vào thời kỳ này. Đến nửa đầu
thế kỷ XIX, đồn điền Mai Xuyên vẫn còn lại dấu vết của một sơ đồn điền
cũ, ruộng công tương đối nhiều (trên 50 mẫu). Làng Yên Doãn, xã Đông Yên
ngày nay do ba ông Lê Đình Chiêu, Thiều Ngọc Bạch, Nguyễn Hữu Lộ đã
chiêu mộ hơn 60 người đến khai phá vùng đất này.
Năm
1461, vua Lê Thánh Tông cử một số quan phụ trách công việc đồn điền ở
Thanh Hoá là: Đồn điền chánh sứ Phan Thế Hợp và các phó sứ là Uông Ngọc
Châu, Tô Văn Bảo (còn gọi là Tô Chính Đạo) và Đỗ Nhuận đến lập đồn điền ở
vùng Quảng Xương. Năm 1471, sau khi chiến thắng Chiêm Thành trở về, Vua
Lê Thánh Tông đã để lại ở đây một số lớn tù binh là người Chiêm Thành
và đã khẩn hoang được 2.440 mẫu ruộng loại 315. Và từ đó khu vực đồn
điền tập trung các tù binh người Chiêm Thành dưới đời vua Lê Thánh tông
đến thời Nguyễn đã trở thành các làng: Đồn Điền, Phú Xá, Đa Lộc, Ngọc
Giáp. Các làng đó nay thuộc xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương ngày nay và
một số làng khác nữa ở vùng này được hình thành bởi chủ trương lập đồn
điền của nhà nước đời vua Lê Thánh Tông.
Trải
qua quá trình hình thành các làng xã từ buổi khai thiên lập địa đến
trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, các làng xã cổ truyền ở vùng đồng bằng
sông Mã có lịch sử ra đời và phát triển cùng với quê hương, đất nước và
có những nét đắc sắc riêng về sản vật, nghề thủ công... mà dấu ấn của
nó luôn được thời gian lưu giữ đậm nét trong tên gọi các làng xã và ký
ức dân gian, tiêu biểu là các vùng thuộc:
Hoằng Hoá: Đồn rằng kẻ Trọng lắm cau (xã hoằng Quỳ).
Kẻ Cát lắm lúa, kẻ Mau lắm tiền" (xã Hoằng Cát).
Nông Cống: Được mùa Nông Cống sống mọi nơi
Mất mùa Nông Cống tả tơi mọi vùng"
Hoặc: Lấy chồng Nông Cống ăn cơm
Lấy chồng Thiệu Hoá quai mồm ăn ngô"
Triệu Sơn: Con cá đồng Nưa, con cua đồng Ngằn
Yên Định: Bò chợ Bản
Cản (rau cải) Chàng Lang
Tĩnh Gia: Cỏ đồng Lách
Thọ Xuân: Chạch đồng Dún
Bún đò Dinh16.
Trải
qua thời gian, theo tiến trình phát triển của xã hội, người dân trong
các làng xã đồng bằng sông Mã với bàn tay và khối óc, họ khai thác
nguyên liệu sẵn có hoặc liên kết để làm ra các sản phẩm và hình thành
các nghề thủ công như: dệt, đan lát, làm đồ gỗ, luyện kim, gốm sứ, đồ
trang sức, đục đá, chế biến lương thực, thực phẩm... mà đến ngày nay
những nghề thủ công của các làng xã làm ra sản phẩm đó vẫn “danh bất hư
truyền”:
- Tơ làng Hồng, bông làng Vạc
- Trống Đồng Cổ, gỗ Phong Ý
- Quạt Lưu Vệ, quế Chính Sơn
- Chiếu Tam Tổng vừa rộng, vừa bền
Mùa hè mát lưng, mùa đông ấm cật...
- Làng Bút làm được vải con
Thổ Oa gánh đất sơn son nặn nồi
Làng Nhồi đục đá nung vôi
Làng Vạn nấu rượu cho người ta mua…
- Phong Thái đan nống đan nia
Nguyệt Chư, Ao Cách thức khuya đan buồn…
- Mùa về lại nhớ cót Giàng
Cách mấy ngày đàng cũng đến tìm mua...
Đó là các làng mà khi nhắc đến không thể quên các sản phẩm thủ công mà nơi đó tạo ra:
- Làng Hồng Đô (xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hoá) có nghề dệt nhiễu, tơ lụa.
- Làng Phú Khê (xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hoá) có nghề dệt vải.
- Làng Chè (xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá) có nghề đúc đồng.
- Làng Đặt Tài (xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hoá) có nghề mộc.
- Làng Tất Tác (xã Tiến Lộc, huyện Hậu Lộc) có nghề rèn.
- Làng Nhồi (xã Đông Tân huyện Đông Sơn) có nghề đục đá.
- Làng Lò Chum (thành phố Thanh Hoá) có nghề gốm, sành, sứ.
- Làng Ráng (thị trấn Vĩnh Lộc) có nghề làm bánh chè lam.
- Làng Rị (xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá) có nghề bện thừng.
- Làng Giàng (xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hoá) có nghề đan cót.
- Làng Ba Làng (xã Hải Thanh, huyện Tĩng Gia) có nghề làm nước mắm.
- Làng Đoan Vĩ, Thái Hà (Hoằng Thịnh, Hoằng Hoá), Quảng Phong (Quảng Xương) nghề đan mây tre ...
Những
làng nghề, thợ nghề luôn nhớ công ơn những người đi trước đã khai lối
mở đường cho làng một phương cách làm ăn mới đem lại cuộc sống ấm no
hạnh phúc. Do vậy làng nghề vùng đồng bằng sông Mã phần lớn có thờ “Ông
tổ làng nghề” như:
- Làng Chè, làng Rỵ (Thiệu Hoá) thờ Nguyễn Minh Không - ông tổ nghề đúc đồng;
- Làng Triều Khúc (Sầm Sơn), thờ bà Triều - bà tổ dệt săm súc.
- Làng Tất Tác (Hậu Lộc), thờ ông tổ nghề rèn.
- Làng Đặt Tài (Hoằng Hoá), thờ ông tổ nghề mộc.
- Làng Yên (Quảng Xương), thờ người truyền nghề làm giấy…
Đến
cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nghề thủ công ở trong các làng xã
vùng đồng bằng sông Mã đã phát triển rất mạnh mẽ. Nhưng không có một
làng nghề nào chuyên sống bằng nghề thủ công. Những làng nổi tiếng trong
vùng có nghề thủ công, có nhiều người đi khắp nơi hành nghề mang về
những lợi ích kinh tế đáng kể, nhưng chỉ là “phụ” và vẫn lấy “nông
nghiệp” làm đầu.
Từ
làng có từ thời các vua Hùng đến làng mới lập gần đây, lý do hình thành
tựu chung lại là nhu cầu về ruộng đất để sản xuất; Sự gia tăng về dân
số và các chính sách phát triển nông nghiệp của các nhà nước thời phong
kiến…
Trong
các làng, xã... lúc bấy giờ, nhiều gia đình sống quần tụ trên một khu
vực địa lý nhất định và có mối quan hệ chằng chịt về thân tộc, láng
giềng...Và từ các mối quan hệ ấy các dòng họ được hình thành và bắt đầu
có sự phân chia đẳng cấp ngày càng rõ nét. Những truyền thuyết trong dân
gian và những chứng cứ khảo cổ đã khẳng định từ thời tiền sử - sơ sử,
làng xã ở vùng đồng bằng sông Mã đã tồn tại và không ngừng phát triển và
có bản sắc văn hoá riêng. Đó cũng là quá trình hình thành và phát triển
của quận Cửu Chân trong quốc gia Văn Lang của các Vua Hùng. Nó góp phần
đánh dấu sự ra đời và phát triển bền vững quốc gia của người Việt cổ
trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Theo số liệu điều tra
thì đến năm 1920, Thanh Hoá có 1.792 làng. Trong đó làng do di dân lập
ấp chiếm tỉ lệ 49%; do triều đình phong đất cho người có công chiếm tỉ
lệ 29%; Còn lại là các làng do từ các đơn vị quân đội nhà nước lập đồn
điền, tù binh khai khẩn và các làng thuỷ cơ... Sự hình thành và phát
triển của làng xã trong quá trình phát triển tuy có nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhưng tựu chung lại chính từ những nguyên nhân khác nhau đó
mà các làng xã đã góp phần không nhỏ xây dựng và phát triển đồng bằng
sông Mã trở thành một địa bàn trọng yếu của đất nước trong suốt chiều
dài của lịch sử dân tộc.
Chú thích:
1. Hiện nay vấn đề của di chỉ núi Đọ có thuộc sơ kỳ thời đại đá cũ không, đang có những ý kiến chưa đồng nhất.
2.
Dẫn theo Nguyễn Quang Hồng, Có một miền quê tên là kẻ Rỵ, Kỷ yếu hội
thảo khoa học Lê Văn Hưu, Cao đẳng sư phạm Thanh Hoá 1992
3. Văn hoá làng Thanh Hoá, Sở VHTT Thanh Hoá, 1990, tr 73.
4. Hoàng Anh Nhân, Lê Huy Trâm : Khảo sát văn hoá làng xứ Thanh, Nxb KHXH, H1993, tr 151
5. Hà Mạnh Khoa, Sông đào ở Thanh Hoá từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, Nxb KHXH, H 2002, tr 91.
6. Đại Việt sử ký toàn thư, T2, Nxb KHXH H 1993, tr 191.
7. Nguyễn Văn Thành, Làng Bồng Trung trong Cội nguồn, in tại Bộ Lao động và Thương binh Xã hội, H1997, tr 217.
8.
Dẫn theo: Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất Việt Nam thế kỷ XI -
XVIII, T1, Nxb KHXH, Hn 1982, tr 206; Lịch sử Thanh Hoá, T2, Nxb KHXH,
H1994, tr 146,147;. Hợp phả họ Doãn - Tư liệu Ban NC và BSLS.TH;
9. Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, T1, Nxb KHXH, HN, 1982, tr 206.
10. Gia phả dòng họ Nguyễn Nhữ Soạn.
11. Lịch sử Thanh Hoá tập III, Nxb KHXH, H 2002, tr 107,108.
12.
Trương Hữu Quýnh: "Một số nét về tình hình ruộng đất Thanh Hoá thời Lê"
trong “Thanh hoá Thời Lê" Ban NCVBSLSTH, Xb 1995, tr125.
13. Lịch sử Thanh Hóa, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, tr.107, 108
14. Gia phả dòng họ Nguyễn.
15. Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất Việt Nam, thế kỷ X – XV, Sđd.
16. Xem thêm: Dân ca Thanh Hoá, Nxb Văn học, H.1965.
Nguồn: Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, ngày 4-7 tháng 12 năm 2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét