GS.TS. Đỗ Thanh Bình
ThS. Nguyễn Thị Thu Thủy
(Đại học Sư phạm Hà Nội)
Thế
kỷ XVI, XVII và XVIII là thời kỳ đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế ngoại thương ở Đại Việt. Đặc biệt, thế kỷ XVII được coi là giai
đoạn phát triển phồn thịnh nhất. Góp vào sự phồn thịnh của kinh tế
ngoại thương nói riêng và cả nền kinh tế Đại Việt nói chung trong các
thế kỷ này là sự xuất hiện của các thương điếm với vị trí như những trung tâm thương mại, tổ chức việc buôn bán giữa Đại Việt với các nước phương Tây. Sự có mặt của các thương điếm của
thương nhân Hà Lan, Anh, Pháp ở những đô thị lớn, như Kẻ Chợ (Thăng
Long), Phố Hiến và Hội An…đã khiến cho diện mạo của nền kinh tế phong
kiến vốn mang tính tự cấp, tự túc có những thay đổi đáng kể.
1. Sự ra đời và hoạt động của các thương điếm (1) phương Tây ở Đại Việt thế kỷ XVII
Trong
hai thế kỷ XVI, XVII và những thập niên đầu của thế kỷ XVIII, tình hình
kinh tế – xã hội thế giới nói chung, ở châu Âu và khu vực châu Á – Thái
Bình Dương nói riêng đã diễn ra nhiều chuyển biến quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến kinh tế – xã hội Đại Việt.
Ở
châu Á – Thái Bình Dương, thế kỷ XVI, XVII, những hoạt động thương mại
đường biển sôi động của người Trung Hoa (dưới triều Minh, Thanh), của
người Nhật Bản (dưới thời Tokugawa) và phần nào của người Indonesia
(thời Java) đã tạo nên một hệ thống mậu dịch châu Á.
Ở
châu Âu, sau những cuộc phát kiến địa lý thế kỷ XV, một nền thương mại
quốc tế xuyên đại dương đã hình thành. Bồ Đào Nha là nước tiên phong
thực hiện những cuộc thám hiểm tràn sang phương Đông. Tiếp theo, người
Hà Lan, Anh, Pháp cũng nối gót xâm nhập vào thế giới Đông Bắc Á và Đông
Nam Á (mà họ gọi chung là Đông Ấn) tìm kiếm thị trường và nguồn nguyên
liệu.
Tất cả những yếu tố mới đó đã tạo nên một kỷ nguyên thương mại mới của thế giới.
Ở châu Á – Thái Bình Dương trong thời gian này đã hình thành hai trục giao thương chính:
- Trục tuyến Bắc – Nam nối liền Nhật Bản qua các vùng bờ biển Trung Quốc, Đài Loan xuống đến Đại Việt và các nước Đông Nam Á khác.
- Trục tuyến Đông – Tây với
trạm dừng chân là Ấn Độ. Từ đây, các tàu thuyền phương Tây qua eo
Malacca, tới Indonexia, Xiêm, Đại Việt, Trung Quốc, Philippin và Nhật
Bản.
Hai
trục giao thương Bắc – Nam và Đông – Tây đó đã tạo nên nhiều con đường
trên biển, như: con đường tơ lụa, con đường gốm sứ, con đường truyền
giáo…Đại Việt đã là giao điểm của các tuyến trung chuyển đó.
Khi xâm nhập vào phương Đông, công cụ chủ yếu của các nước phương Tây là các Công ty Đông Ấn và hệ thống các thương điếm.
Bồ
Đào Nha là nước đầu tiên xâm nhập vào phương Đông và cũng là những
người đầu tiên đến Đại Việt, nhưng chỉ tiến hành các hoạt động buôn bán
riêng lẻ, không lập công ty.
Hà
Lan là nước có nền kinh tế phát triển khá sớm và một nền thương mại
hàng hải hùng hậu. Tuy xâm nhập vào vùng biển Thái Bình Dương sau người
Bồ Đào Nha, nhưng Hà Lan đã dần vươn lên chiếm ưu thế ở vùng này vào thế
kỷ XVII.
So
với Bồ Đào Nha, Hà Lan có nhiều thuận lợi trong việc buôn bán với Đại
Việt. Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) được thành lập năm 1602, có tiềm lực
lớn lao và được chính phủ bảo trợ mạnh mẽ. Hà Lan cũng đã đặt được những
căn cứ vững chắc của mình ở Indonesia: Batavia (Jacarta sau này) và
Bantam, dùng làm trụ sở đại bản doanh của công ty trước khi xâm nhập vào
Đại Việt.
Trong
những năm 1601, 1613 và 1617 đã có những thuyền buôn đầu tiên của VOC
cập bến, thăm thú vùng Đàng Trong. Nhưng, phải đến năm 1633, Hà Lan mới
chính thức có quan hệ buôn bán với Đàng Trong sau sự kiện Paulus
Traudenius ở Batavia cử đại diện của mình đến Hội An thương thuyết. Kết
quả là một thương điếm của
Hà Lan được thành lập ở Hội An do Duijcker đứng đầu và C.Caesar làm phụ
tá. Năm 1637, tàu Petten của Hà Lan từ Đài Loan đến Hội An, mang theo
tiền resal, bạc và đồng, trị giá tổng cộng lên tới 120.960 florins (1
florins = 1 quan = 1/2 lạng bạc ). Đổi lại, chúa Nguyễn cam kết sẽ cung
cấp 500 tạ tơ và 5000 tạ đường đen cho công ty.
Tuy
nhiên, quan hệ giao thương giữa Hà Lan và Đàng Trong sớm gặp nhiều sóng
gió. Hà Lan trách cứ các chúa Nguyễn đã vô lý tịch thu hàng hóa trên
mấy tàu của Hà Lan bị đắm ở Cù Lao Chàm và quần đảo Hoàng Sa. Chúa
Nguyễn bất bình vì Hà Lan liên kết và giúp đỡ Đàng Ngoài tấn công Đàng
Trong ở cửa Thuận An (1642). Sau những căng thẳng, hai bên đã cố gắng
dàn hòa để nối lại giao thương bằng một thỏa ước năm 1651, nhưng đã
không đưa đến một kết quả cụ thể nào. Thương điếm của Hà Lan ở Hội An
chính thức đóng cửa năm 1654.
Quan
hệ giao thương của Hà Lan với Đàng Ngoài diễn ra muộn hơn nhưng có
nhiều thuận tiện và đem lại kết quả nhiều hơn. Năm 1637, chiếc tàu Grol
xuất phát từ Nhật Bản qua Đài Loan đến Đàng Ngoài. Tàu mang theo 40 hòm
bạc, sắt, đồng, các hàng hóa châu Âu và Nhật Bản với tổng trị giá
190.000 florins (2).
Ở
Kẻ Chợ, trưởng đại diện của Hà Lan là Karel Hartsinck đã tìm cách tiếp
cận với chính quyền Lê – Trịnh (vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng),
các triều thần phụ trách tàu hải quan và thu thuế, tặng quà và thương
thuyết những vấn đề kinh tế – chính trị. Quan hệ song phương khá tốt đẹp
và thân thiện. Lê Thần Tông đã đồng ý cho Hà Lan mở một thương điếm ở
Phố Hiến (Hưng Yên). Đổi lại, Hà Lan ngầm hứa với các chúa Trịnh là sẽ
ủng hộ Đàng Ngoài trong cuộc chiến tranh với chúa Nguyễn.
Thương
điếm của Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Phố Hiến xây bằng gạch, gần bờ sông
Hồng. Đến năm 1645, thương điếm được phép dời lên Kẻ Chợ, Phố Hiến vẫn
được duy trì như một chi nhánh. Thương điếm Hà Lan ở Đàng Ngoài đã tồn
tại 64 năm (1637 – 1700), trải qua 13 đời giám đốc (3).
Trong
những năm đầu, thương điếm Phố Hiến làm ăn khá phát đạt. Thống kê cho
thấy, trong khoảng thời gian 1638 – 1642 đã có 5 tàu của Hà Lan cập bến
Phố Hiến mang theo 1.323.631 florins, 20.000 lạng bạc và các hàng hóa
trao đổi và mua được số lượng lớn các mặt hàng tơ sống, vải lụa đã dệt,
lĩnh và quế chi.
Thương
điếm Hà Lan ở Kẻ Chợ được dựng ngoài thành Đại La, bên bờ sông Nhị.
Trong những thập kỷ đầu, những tàu buôn của Hà Lan từ Nhật Bản, Đài Loan
và Batavia đã cập bến Kẻ Chợ buôn bán, mang đến nhiều tiền bạc và hàng
hóa (năm 1646 là 130.000 lạng bạc, năm 1649 là 457.928 florins, năm 1650
là 329.613 florins, năm 1661 là 150.200 florins, năm 1681 là 123.354
florins, năm 1682 là 165.420 florins). Đổi lại, họ được một chuyến hàng
500, 600 tạ tơ sống, những tấm lĩnh…Thời gian sau, danh mục các mặt hàng
xuất khẩu còn thêm gốm sứ thô, xạ hương, long não, đồ sơn son thiếp
vàng. Hàng đem vào thì có thêm diêm tiêu, lưu huỳnh, vũ khí như các cỗ
súng đại bác bằng gang, thậm chí còn có cả gạo vào những năm đói kém
(1642). Những hàng hóa đem lại lợi nhuận lớn hơn cả cho Công ty Đông Ấn
Hà Lan là tơ lụa và gốm sứ (4). Lãi suất hàng năm của công ty (giai đoạn
1641 – 1654) lên tới 186% (5).
Lái buôn Hà Lan ở Đàng Ngoài rất có kinh nghiệm và tài nghệ trong ứng xử kinh doanh. Theo Ch.Maybon, “những người Hà Lan ở Đàng Ngoài cũng như ở các nơi khác, chịu biết uốn mình theo hoàn cảnh”
(6). Một mặt, họ tìm đủ mọi cách để cạnh tranh thắng lợi đối với các
đối thủ Bồ Đào Nha, Trung Hoa; mặt khác, họ tìm cách mua chuộc tầng lớp
vua chúa và các quan khám tàu thu thuế bằng cách tặng quà biếu, không
lấy lại tiền đặt trước. Họ cũng đã tích cực vận động những người môi
giới như các bà phi, người phiên dịch trong việc tiếp xúc với vua quan.
Họ cũng không quản ngại hàng đêm xuống tận từng gia đình thợ dệt để mua
tơ, đặt hàng dệt. Vì theo họ, những người thợ dệt Đàng Ngoài muốn đến
giao dịch trực tiếp tại các thương điếm thường bị lính canh của các quan
đuổi đánh.
Trong
những năm cuối thế kỷ XVII, tình hình buôn bán của thương điếm Hà Lan ở
Đàng Ngoài gặp nhiều khó khăn. Phần vì bị người Anh cạnh tranh gay gắt.
Phần do chính sách gây phiền hà, mua rẻ, bán đắt của chính quyền Lê –
Trịnh, thái độ sách nhiễu, tham quan của những quan thu thuế.
Sau
khi cân nhắc, năm 1700, Công ty Đông Ấn Hà Lan đã chỉ thị cho giám đốc
thương điếm J.Van Loo đóng cửa vĩnh viễn thương điếm ở Đàng Ngoài, rút
hết nhân viên, thiết bị về Batavia.
Người
Anh đến Đông Nam Á muộn hơn người Bồ Đào Nha và Hà Lan, tuy rằng, công
ty Đông Ấn Anh (EIC) đã được thành lập từ năm 1600. So với VOC, EIC có
số vốn ít hơn, hoạt động trong phạm vi nhỏ hơn nhưng lại thu được nhiều
lợi nhuận hơn.
Năm
1613, thương điếm Anh ở Hirado đã cử Tempest Peacock và Walter Cawarden
đến vùng Hội An thăm dò và dự định mua hàng, mang theo 720 bảng Anh và
1000 pesos cùng thư ngoại giao gửi chúa Nguyễn. Tuy nhiên, đây lại là
một sự khởi đầu tai hại vì hai người đó đều không trở về, tiền hàng bị
mất hết. Năm 1617, thương điếm cử tiếp W.Adam và E.Sayer đến Đàng Trong
nhưng cũng không mang lại kết quả.
Hơn
nửa thế kỷ sau, người Anh đã thành công trong việc giao thương với Đàng
Ngoài. Năm 1672, chiếu tàu Zant, xuất phát từ trụ sở EIC ở Bantam do
Patrick chỉ huy, đã đưa W.Gyfford theo đường sông Thái Bình, qua Phố
Hiến lên tới Kẻ Chợ, mang theo 10.000 réaux và thư đề nghị giao thương
buôn bán. W.Gyfford được chúa Trịnh Tạc tiếp đón và đồng ý cho mở một
thương điếm ở Phố Hiến.
Năm
1683, Công ty EIC được phép dời thương điếm từ Phố Hiến lên Kẻ Chợ, xây
trụ sở ở bờ Nam sông Tô Lịch, gần thành Đại La. Theo những điều ghi
chép của W.Dampier năm 1688 thì “thương
điếm của người Anh không có nhiều người, tọa lạc một cách bình yên ở
phía Bắc thành phố và quay mặt ra ngoài sông. Đây là một ngôi nhà thấp,
trông đẹp mắt và là ngôi nhà đẹp nhất…Ở chính giữa có một phòng ăn xinh
xắn và ở các phía là những căn phòng tiện nghi dành cho thương nhân,
nhân viên thương điếm và người hầu của công ty” (7).
Cũng
như thương điếm Hà Lan, trong những năm đầu, thương điếm của Anh ở Đàng
Ngoài làm ăn rất phát đạt. Hàng năm đều có các tàu buôn Anh từ Bantam,
Đài Loan, Nhật Bản đến Đàng Ngoài buôn bán.
Những
mặt hàng EIC nhập khẩu vào Đàng Ngoài khá phong phú. Ngoài bạc là diêm
tiêu, lưu huỳnh, những tấm dạ khổ rộng, nỉ xoắn tuyết, vải in hoa, chì,
súng lớn, trong đó có loại súng trường thon dài là loại được ưa chuộng
hơn cả. Các nguyên liệu phục vụ chiến tranh như đồng, sắt rèn, lưu
huỳnh, diêm tiêu, thuốc súng…hợp kim kẽm đúc tiền cũng được nhập khẩu
nhiều.
Các
mặt hàng xuất khẩu chính của Đàng Ngoài vẫn là tơ lụa. Theo Farrington,
lưu trữ của EIC đã ghi lại nhiều mặt hàng tơ lụa khác nhau của Đàng
Ngoài như nhung, lĩnh, sồi, hockins (?), peniascoes (?), lụa, the, dạ,
lượt. Năm 1676, EIC đã giao 2.342.200 đồng tiền đặt cọc cho 4630 tấm vải
lụa (8). Những loại lĩnh trắng trơn hoặc in hoa thưa, khổ rộng là những
mặt hàng được ưa chuộng.
Sau
tơ lụa là hàng gốm sứ. Để cạnh tranh với các đồ gốm sứ cao cấp, đắt
tiền của Trung Quốc và Nhật Bản, thương điếm của Anh thường chọn mua
những đồ gốm phổ thông, rẻ tiền (bát đàn men nâu Bát Tràng) của Đàng
Ngoài với số lượng lớn, đem bán lại cho các địa phương khác ở Đông Nam Á
(Indonesia, Miến Điện…) và Ấn Độ. Năm 1688, thuyền trưởng Pool đã mua ở
Kẻ Chợ 10.000 chiếc bát đàn đem sang bán ở Sumatra.
Ngoài
ra, các mặt hàng xuất khẩu còn có đường, xạ hương, đồ gỗ sơn thếp. Năm
1687, Công ty đã đặt mua của Đàng Ngoài 7184 đồ gỗ sơn.
Cũng
như Hà Lan, trong những năm sau, công ty Đông Ấn Anh gặp khó khăn trong
giao thiệp với Đại Việt, nhất là với những viên quan khám hàng, thu
thuế. Họ than phiền về thói tham lam và kiêu căng của giới này, sự khó
khăn trong việc thanh toán thuế má với chính quyền. Mặt khác, một thị
trường mới lớn hơn đã mở ra là Trung Quốc. EIC không mặn mà với Đàng
Ngoài mà muốn tìm một nơi khác thuận lợi hơn là Đàng Trong.
Năm
1695, Ban lãnh đạo EIC ở Madras (Ấn Độ) đã cử Thomas Bowyear đến Đà
Nẵng xin gặp chúa Nguyễn dâng thư đề nghị giao thương gồm 7 điểm, trong
đó có một điểm là đề nghị xin lập thương điếm. Chuyến đi được coi là
thân thiện về mặt ngoại giao nhưng không đem lại kết quả cụ thể. Ở Đàng
Ngoài, thương điếm của Anh ở Kẻ Chợ cũng chính thức đóng cửa năm 1697,
với sự ra đi của của viên giám đốc cuối cùng Richard Watt và các đồng
sự.
Là
người phương Tây đến Đại Việt muộn màng nhất, quan hệ ngoại giao Việt –
Pháp chỉ được chính thức thiết lập dưới triều vua Lui XIV (1643 –
1715). Những hoạt động này nằm trong sự tính toán của giáo sĩ Pallu lúc
đó đang chi phối chính trị triều đình Pháp: kết hợp truyền bá tôn giáo,
khuếch trương sự vinh quang của nhà vua với các hoạt động buôn bán.
Năm
1699, giám mục La Motte Lambert cập bến ở Đàng Ngoài với hai sứ mệnh:
truyền giáo và buôn bán. Phái bộ được đón tiếp nhưng không đem lại kết
quả cụ thể. Sau đó, những năm 1671, 1676, Lambert cũng đã đến Đàng Trong
và được các chúa Nguyễn tiếp kiến.
Năm 1680, Công ty Ấn Độ của Pháp (CIO) đã cử Chappelian đi trên chiếc tàu “Tonquin”
đến Đàng Ngoài thương thuyết mang theo 3000 réaux tiền hàng và 20.000
écus để mua tơ lụa và xạ hương. Chappelian cũng mang nhiều đồ vật quý
hiếm làm quà biếu vua chúa, các quan để gây cảm tình. Kết quả chuyến đi
được đánh giá là “một sự khởi đầu thắng lợi”.
Chính quyền Lê – Trịnh đón tiếp thân thiện phái đoàn, trao tặng vua Lui
XIV một số tặng phẩm, đồng ý cho người Pháp lập một thương điếm ở Phố
Hiến.
Ở Phố Hiến, người Pháp có một ngôi nhà, nhưng không rõ là trụ sở của thương điếm hay nhà của giám mục: “Người
Pháp có một ngôi nhà ở đây nhưng chúng tôi không thể nói rành mạch đó
là dùng cho việc buôn bán hay nhằm mục đích truyền giáo. Điều đó chứng
tỏ chắc chắn là những quan hệ buôn bán chỉ được đặt ra sau khi thành lập
những khu thừa sai” (9). Bản thân Công ty Đông Ấn Pháp chỉ có trên danh nghĩa, hoạt động kém hiệu quả, kém xa người Hà Lan và người Anh.
Năm
1682, tàu Saint Joseph chở hai giám mục Deydier và Bourges từ Xiêm đến
Đàng Ngoài mang theo quốc thư của vua Lui XIV gửi vua Lê – chúa Trịnh đề
nghị được tự do buôn bán và truyền đạo. Nhà nước Đàng Ngoài sau đó đã
viết thư phúc đáp. Lời lẽ trong thư tỏ ra rất mềm mỏng về phương diện
giao thương: “Phép lịch sự không
phải là điều gì khác thường ở nước chúng tôi. Không có người ngoại quốc
nào lại không được chúng tôi đón tiếp ân cần. Làm sao chúng tôi có thể
từ chối những con người của nước Pháp, là một vương quốc lừng lẫy nhất
hoàn cầu, vì lòng yêu mến nước chúng tôi đã mong muốn lui đến đây để
mang cho nước chúng tôi hàng hóa”. Lá thư cũng thẳng thừng
từ chối đề nghị truyền đạo với lý do cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những
luật lệ mà nhà nước xưa nay đã đề ra, ngăn cấm việc truyền đạo.
Những
việc tiếp sau là khó khăn bất lợi cho việc giao thương của người Pháp ở
Đàng Ngoài. Năm 1682, Hà Lan đánh chiếm Bantam, trục xuất thương điếm
làm Pháp mất chỗ dựa. Những quà tặng của vua Lê – chúa Trịnh gửi vua Lui
XIV khi về đến bờ biển Madagaxca đã bị sóng đánh đắm hết. Chúa mới
Trịnh Căn tỏ ra dè dặt với những đề nghị của người Pháp.
Sau
năm 1682, không còn một thương thuyền nào của CIO được cử đến Đàng
Ngoài. Thậm chí năm 1683, CIO còn bị cáo buộc chống lại sứ mệnh truyền
giáo của Hội truyền giáo Pari (MEP). Các giáo sĩ còn cho rằng, thương
điếm Đàng Ngoài của Pháp thực chất chỉ là cái danh. Người ta cử
Chapelain đến đây để dạy cho dân chúng ở đây cách làm ăn buôn bán thôi.
Từ
năm 1685, sau khi Trung Quốc mở một số thương cảng cho người phương Tây
cùng với sự suy thoái của thương mại VOC – Đàng Ngoài từ thập niên 50
của thế kỷ XVII, các thương nhân châu Âu có xu hướng tìm đến thị trường
Trung Quốc. Cảng Quảng Châu được mở rộng đã thu hút số lượng thương
thuyền từ khắp nơi đến buôn bán. Đối với Pháp, việc thâm nhập vào thị
trường Đại Việt đã có sự chuyển hướng mà trọng tâm là một số địa điểm
của Đàng Trong, nhưng cũng không có kết quả.
Theo như nghiên cứu của F.Mantienne, số hàng hóa đem đến thị trường Đàng Ngoài của tàu buôn Tonquin do CIO cử đến tập trung vào các mặt hàng chính với số lượng như sau:
1. Vũ khí và các mặt hàng chiến lược, gồm: hai khẩu đại bác làm quà tặng, diêm tiêu, lưu huỳnh.
2. Dạ châu Âu: loại mịn của Pháp, các màu như đỏ, sẫm.
3. Đồng bạc réaux: theo yêu cầu tiền đồng, bạc Đàng Ngoài, gồm bạc nén và bạc đúc tiền.
4. Hạt tiêu, phần lớn để xuất sang Trung Quốc.
5.
Vải bông Ấn Độ, gồm vải trắng thô, Chitte (loại vải bông, hoa văn để vẽ
in), Palempore (loại vải được trang trí vẽ hoa), Barampoux, loại vải
sợi nhuộm kẻ carô.
6. Gỗ đàn hương: xuất sứ từ đảo Timor (Indonexia) được bán sang Trung Quốc (10).
Trong khi đó, các mặt hàng được các tàu Tonquin và Saint Joseph (đến
Đại Việt năm 1682) nhập từ thị trường Đàng Ngoài phần lớn chỉ là những
hàng mẫu, như: tơ, lụa, xạ, vàng… Mặc dù đã có những mặt hàng nhất định
được trao đổi trong quan hệ giao thương giữa Đàng Ngoài và CIO qua
thương điếm của Pháp, nhưng sự giao thương đó chưa có chứng cứ và số
liệu rõ ràng. Hơn nữa, các sản phẩm trên thường dùng làm quà biếu, hàng
mẫu và hàng tái xuất sang Trung Quốc. Do vậy, thực tế thương điếm của
Pháp ở Đàng Ngoài chỉ đóng vai trò như một nơi trung chuyển để chở tiếp
hàng sang Trung Quốc.
Như
vậy, trong số những nước phương Tây đến Đại Việt trừ Bồ Đào Nha, các
nước Hà Lan, Anh, Pháp đều lập thương điếm thực hiện việc buôn bán với
Đại Việt. Ở những mức độ khác nhau, các thương điếm này đã hoạt động có
hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu của các nước phương Tây trên con
đường xâm nhập vào thị trường của các nước phương Đông. Điều này cũng có
những tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Đại Việt ở thế kỷ
XVII.
2. Đặc điểm của các thương điếm phương Tây ở Đại Việt thế kỷ XVII
Thứ nhất, điều
dễ nhận thấy là hầu hết thương điếm của các nước phương Tây ở Đại Việt
đều chủ yếu được xây dựng ở các thương cảng lớn của Đàng Ngoài: Kẻ Chợ,
Phố Hiến. Ngoại trừ trường hợp duy nhất là thương điếm Hội An của người
Hà Lan (1633 – 1654) ở Đàng Trong nhưng hoạt động buôn bán cũng nhanh
chóng suy tàn.
Nguyên
nhân làm nên đặc điểm này một phần do vị trí địa lý và điều kiện tự
nhiên của Kẻ Chợ và Phố Hiến rất thuận lợi để tàu thuyền phương Tây có
thể đến Đại Việt đặt quan hệ buôn bán. Một phần khác khá quan trọng có
lẽ là do chính sách cởi mở của chính quyền Lê – Trịnh đối với các khách
buôn phương Tây trong thế kỷ XVII.
Chẳng
hạn, đối với thương khách Hà Lan, do có nhu cầu giúp đỡ về quân sự cũng
như vũ khí trong chiến tranh với họ Nguyễn, nên triều đình Lê – Trịnh
đã rất dễ dãi cho phép họ buôn bán ở Đàng Ngoài. Người Hà Lan sau 8 năm,
kể từ năm 1637 đã bắt đầu được triều đình Lê – Trịnh cho lập thương
điếm ở Phố Hiến, thì năm 1645 đã được phép dời trụ sở chính của thương
điếm lên Kinh thành. Không những vậy, người Hà Lan còn được phép cư trú
và xây dựng nhà cửa tại Kinh thành. Đây là một trong những ưu đã rất đặc
biệt của chính quyền Lê – Trịnh giành cho thương khách Hà Lan.
Đối
với thương khách Anh cũng vậy. Họ là loại khách thứ hai thuộc phương
Tây được phép vào trú ngụ và lập thương điếm tại Thăng Long.
Những sự việc trên đã góp phần kích thích được nền ngoại thương của Đại Việt tiến triển thêm những bước mới.
Thứ hai,
hầu hết các thương điếm này đều ra đời và hoạt động trọn vẹn trong thế
kỷ XVII. Cuối thế kỷ XVII, lần lượt các thương điếm lớn của các nước
phương Tây đều chấm dứt hoạt động tại Đại Việt và chuyển sang khu vực
khác hiệu quả hơn, ngoại trừ thương điếm của người Pháp. Tuy vậy, hoạt
động buôn bán của thương điếm Pháp thực sự không có hiệu quả và thua xa
người Hà Lan, người Anh. Đầu thế kỷ XVIII, hoạt động của thương điếm này
kết hợp chặt chẽ với những hoạt động của MEP. Và thương điếm của Pháp
trở thành căn cứ bàn đạp để người Pháp tiến hành công cuộc xâm lược Việt
Nam vào thế kỷ kế tiếp.
Có
nhiều lý do khiến cho các nước phương Tây sớm rút khỏi Đàng Ngoài, như:
nền kinh tế Đàng Ngoài còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, chưa đáp ứng
yêu cầu của sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế ngoại thương; sự vươn lên
mạnh mẽ của các thị trường khác trong khu vực; chính sách của nhà nước
phong kiến chưa phù hợp, không đáp ứng được nhu cầu buôn bán đương
thời…Có thể tạm lý giải mấy nguyên nhân sau đây:
Một là,
việc buôn bán với các nước phương Tây không xuất phát từ yêu cầu chung
của nền kinh tế mà từ lợi ích riêng biệt của chính quyền phong kiến, như
về vũ khí phục vụ cho cuộc chiến, hoặc vì những lợi ích khác. Thậm chí,
khi không đạt được mục đích thì các chúa lại sẵn sàng khước từ việc
buôn bán. Một thương khách Hà Lan đã than phiền: “Vì
công ty đã giúp đỡ trong cuộc chiến tranh với Đường Trong, chúa không
đòi hỏi gì hết trong những năm 1642 và 1643. Nhưng chúa không hài lòng
về sự giúp đỡ quá ít ỏi năm vừa qua, chúa lại đòi phải nộp như trước,
rồi cuối cùng, chúa cũng nhận một số dưới 50.000 lạng bạc” (11).
Thế
kỷ XVII, những cuộc xung đột giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn còn diễn
biến khá phức tạp, cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều có nhu cầu thiết lập
quan hệ buôn bán với các nước phương Tây, vừa là để tìm một đồng minh
vững chắc, vừa là tìm người cung cấp vũ khí cho cuộc chiến tranh của hai
bên. Thế kỷ XVIII, chiến tranh Trịnh – Nguyễn tạm ngưng, nhu cầu mua vũ
khí của phương Tây giảm sút. Việc buôn bán với phương Tây cũng sa sút
dần.
Hai là,
nhà nước không có những quy định rõ ràng trong việc giao thương với các
nước ngoài đến Đại Việt. Cuối thế kỷ XVII, thương khách người Anh đã
than phiền về việc không có luật lệ viết thành văn ở Đường Ngoài, làm
khó khăn rất nhiều cho những người nước ngoài đến buôn bán ở đây.
Bên
cạnh đó, nhà nước phong kiến Lê – Trịnh còn có những ứng xử thiếu công
bằng đối với các khách buôn đến Đại Việt. Chẳng hạn, việc phải nộp trước
một ít bạc khi đặt hàng không được thực hiện đối với tất cả các loại
thương khách mà chỉ thực hiện đối với thương khách đến từ châu Âu, không
áp dụng đối với những thương khách đến từ châu Á, cụ thể là khách buôn
Hà Lan chứ không phải khách buôn Trung Quốc. Việc này đã được phản ánh
trong báo cáo của thương khách Van Ricbeek như sau: “Đối
với những người Trung Quốc, người bản xứ có cảm tình hơn là đối với
người Hà Lan…Người Trung Quốc không phải nộp bạc trước cho chúa để mua
tơ. Nếu người Hà Lan nâng cao giá lên một chút để cạnh tranh với người
Trung Quốc, thì lần sau chúa sẽ trao cho họ số tơ ít đi so với số bạc đã
từng ứng ra” (12).
Ba là, sự nhũng nhiễu và thiếu minh bạch trong việc thực thi nhiệm vụ của các quan lại thừa hành..
Trong
khi phía nhà nước không có thái độ rõ ràng thông qua những chính sách
về ngoại thương, thì những quan lại thừa hành lại góp thêm một bước cản
trở nữa. Tình hình này được một khách buôn Hà Lan phản ánh như sau: “Các
quan lớn trong triều hiện nay gây khó khăn cho người Hà Lan…Họ cố vét
tất cả tơ đã sản xuất ra ở các cửa hàng, khiến cho người Hà Lan không
thể nào không mua chuộc các quan lớn đó nếu muốn mua được tơ” (13). Hoặc là “Năm 1647, các quan lớn trong triều cho tung tin trong khắp xứ là có lệnh cấm không cho bán tơ cho người Hà Lan”. Tuy gặp khó khăn như vậy nhưng vì lợi nhuận trong buôn bán, họ cũng nhận thấy rất rõ rằng: “Kết
tội bọn hoạn quan trước mặt chúa là một việc làm vô ích, đó là húc đầu
vào tường. Của cải và tính mạng của nhân viên công ty lập tức bị đe dọa,
và có thể phải bỏ hẳn việc buôn bán với Đàng Ngoài” (14).
Bốn là,
do nền sản xuất của Đại Việt còn khá manh mún, lạc hậu. Người sản xuất
chưa quen với việc làm ăn lớn nên không thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra
của khách hàng.
Khách
buôn nước ngoài muốn mua được nhiều sản phẩm tự nhiên hoặc mặt hàng thủ
công chế biến từ sản phẩm tự nhiên ở Việt Nam thì lại gặp thêm một khó
khăn nữa là tàu buôn của họ phải lưu lại ở Việt Nam khá lâu, vì phải chờ
sản xuất sau khi đặt mua hàng. Chẳng hạn, đối với hai mặt hàng tơ và đường,
tuy chỉ là sản phẩm thủ công của nước ta nhưng mỗi khi khách đến mua
được đủ hàng cũng phải chờ hàng tháng trời, có khi ba, bốn tháng trời.
Chính
những điều bất cập trên đã khiến cho việc buôn bán với các nước phương
Tây tuy có đem lại lợi nhuận cho họ, song họ vẫn nhận thấy có sự khá
phiền phức. Và cuối cùng, khi không đáp ứng được yêu cầu của họ thì họ
sẵn sàng rút lui, tìm đến nơi nào có nhiều lợi nhuận hơn. Tình hình này
xảy ra vào đầu thế kỷ XVIII khi một thị trường rộng mới, lớn hơn, hấp
dẫn hơn được mở ra ngay cạnh Việt Nam, đó là thị trường ở Quảng Đông
(Trung Quốc).
3. Vai trò của các thương điếm phương Tây đối với nền kinh tế Đại Việt thế kỷ XVII
Thế
kỷ XVII đi vào lịch sử nhân loại như một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của
ngoại thương thế giới khi tuyến buôn bán trực tiếp Á – Âu được thiết
lập từ thế kỷ trước được củng cố và mở rộng. Là một mắt xích quan trọng
trong hệ thống thương mại châu Á được các nước phương Tây thiết lập
trong thế kỷ XVII, với những hoạt động sôi nổi của các thương điếm Hà
Lan, Anh…, Đại Việt đã chịu những ảnh hưởng và tác động trực tiếp của
luồng thương mại kể trên.
Thứ nhất, sự
mở rộng của nền ngoại thương Đại Việt trong thế kỷ XVII, trong đó có sự
ra đời và hoạt động của các thương điếm phương Tây đã đưa tới sự hình
thành của hệ thống thương mại liên hoàn Doméa – Phố Hiến – Kẻ Chợ ở Đàng
Ngoài. Trong đó, Doméa là bến đỗ, nơi lưu trú của thủy thủ đoàn ở vùng
cửa sông. Phố Hiến mang trong mình cả chức năng thương mại và tuần ty,
nhưng chức năng là một tuần ty nổi bật hơn cả. Thăng Long – Kẻ Chợ là
trung tâm thương mại chủ đạo – nơi hàng hóa xuất khẩu được sản xuất và
tập trung về để thương nhân ngoại quốc cất hàng đưa đi bán khắp thị
trường khi vực và châu Âu.
Trong bài viết “Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII (Qua các nguồn tư liệu phương Tây)”, tác giả Hoàng Anh Tuấn khẳng định: “Sự
thịnh đạt của ngoại thương Đàng Ngoài thế kỷ XVII có liên quan trực
tiếp đến sự ra đời và phát triển của hệ thống thương mại xoay quanh trục
chính là “sông Đàng Ngoài” với 3 khu vực đảm trách 3 chức năng riêng
biệt nhưng gắn bó khá cơ hữu với nhau” (15).
Tác
giả cũng cho rằng, sự hình thành của hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế
kỷ XVII chính là điểm đưa đến sự khác biệt căn bản với ngoại thương Đại
Việt ở các thế kỷ trước đó.
Trong
thế kỷ XVII, người nước ngoài được phép đến tận các làng xã lân cận để
đặt và mua tơ lụa…và người địa phương được quyền đến tận các thương điếm
của nước ngoài để bán sản phẩm – mặc dù luôn bị bọn quan lại cản trở.
Người ngoại quốc được đi lên kinh đô buôn bán tự do sau khi đã nộp đủ số
lượng vốn nhất định cho vua chúa và quan lại để thu mua sản phẩm từ
những người này…Trên phương diện lý thuyết giao lưu thương mại, những
thay đổi căn bản trên ở miền Đại Việt trong thế kỷ này đã phần nào cởi
bỏ được sự o ép trong thông thương trước đây và nhìn chung phù hợp với
mô hình phát triển thương mại giữa các vùng nội địa.
Thứ hai,
sự hoạt động tích cực của các thương điếm phương Tây ở Đại Việt, nhất
là thương điếm Hà Lan và Anh cũng là một trong những nhân tố kích thích
nhu cầu cải tiến và phát triển kỹ thuật trong thủ công nghiệp. Thêm nữa,
do tính chất buôn bán chủ yếu của thương nhân nước ngoài – chủ yếu bằng
thuyền và ở lại có thời hạn, nên phương thức sản xuất một số mặt hàng
thủ công của Đại Việt phải có những thay đổi để đáp ứng với yêu cầu và
thị hiếu của họ.
Thứ ba, với những hoạt động tích cực của các Công ty Đông Ấn phương Tây, gần
hơn
là của các thương điếm phương Tây tại Đại Việt đã đưa Đại Việt trở
thành một mắt xích hữu cơ trong các luồng hải thương liên hoàn kết nối
thế giới Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á và châu Âu. Tơ lụa của Đại Việt đã
thu hút các thương nhân Hà Lan, Anh, Pháp…đến buôn bán ở Đại Việt trong
những thập niên đầu của thế kỷ XVII. Kế đến là sản phẩm gốm sứ của Đại
Việt cũng trở thành thương phẩm hấp dẫn thị trường Đông Nam Á hải đảo
trong các thập kỷ tiếp theo.
Bên
cạnh những tác động rất tích cực của hệ thống thương điếm phương Tây
đối với nền kinh tế Đại Việt trong các thế kỷ XVII thì sự tồn tại của
các thương điếm này cũng là “cầu nối quan trọng”
đưa các nước phương Tây can thiệp bằng quân sự để chiếm thị trường và
đất đai của Đại Việt một cách dễ dàng hơn. Điều này đã được minh chứng
qua hoạt động thương mại của Công ty Đông Ấn Pháp mà trung gian là
thương điếm Pháp ở Đại Việt và Hội truyền giáo Pari (MEP) những năm cuối
thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII và cuộc xâm lược vũ trang của Pháp vào
Đại Việt nửa sau thế kỷ XIX.
Xem xét toàn bộ hoạt động của CIO ở Đại Việt thì điểm nổi bật nhất là sự liên hệ chặt chẽ, tương hỗ “mang tính chất tự nhiên”
giữa CIO và MEP. Một số nhà nghiên cứu thậm chí còn cho rằng, MEP gần
như có mặt trong tất cả các hoạt động thương mại của CIO trên đất Đại
Việt nói chung và ở Viễn Đông nói riêng.
Bản
thân sự ra đời của CIO là dựa trên mô hình của VOC và EIC nhằm đáp ứng
nhu cầu mở rộng quan hệ ngoại thương của Pháp. Tuy nhiên, hạn chế lớn
nhất trong mối quan hệ thương mại giữa CIO và Đại Việt là số lượng trao
đổi hàng hóa. Nguyên nhân là do người Pháp hiểu biết về thị trường Đại
Việt tương đối muộn hơn so với các nước châu Âu khác. Mặt khác, họ cũng
không phải là những thương nhân có nhiều kinh nghiệm. Ngay cả khi EIC,
VOC đã rút lui khỏi thị trường Đại Việt cuối thế kỷ XVII, CIO vẫn không
rút ra được những bài học cần thiết cho quá trình thâm nhập vào thị
trường Đàng Trong ở đầu thế kỷ XVIII. Do vậy, trọng tâm hoạt động thương
mại của CIO nói chung và thương điếm Pháp ở Đại Việt nói riêng trong
thế kỷ XVIII đã chú ý nhiều hơn đến việc chiếm đất làm thuộc địa. Thêm
nữa, nhu cầu mở rộng ngày càng lớn của MEP trên đất Đại Việt khiến cho
tư bản Pháp đã bắt đầu quá trình giành giật thị trường, chiếm đất với
vai trò đáng kể của các giáo sĩ. Đây là những bước chuẩn bị quan trọng
cho quá trình xâm lược Việt Nam vào thế kỷ XIX của tư bản Pháp.
Kết luận
Sự
ra đời và hoạt động của các thương điếm phương Tây trong nền kinh tế
Đại Việt thế kỷ XVII đã tạo ra một thời kỳ giao thương Đông – Tây sôi
nổi, hiếm có trong tiến trình lịch sử trung đại Việt Nam. Vị trí và vai
trò thực sự của các thương điếm phương Tây trong nền kinh tế Đại Việt
thế kỷ XVII còn cần xem xét, khảo cứu qua nhiều công trình khoa học
khác. Tuy nhiên, cũng không vội vàng khi khẳng định, sự có mặt của các
thương điếm phương Tây ở Đại Việt thời kỳ này đã góp phần tô điểm thêm
sự đa dạng trong bức tranh nhiều màu sắc của kinh tế ngoại thương Đại
Việt thế kỷ XVII.
——–
CHÚ THÍCH (1).
Thương điếm là những cơ sở buôn bán của các nước phương Tây, là nơi đặt
cửa hàng, kho chứa hàng hóa, phòng làm việc của thương nhân nước ngoài.
Liên quan mật thiết đến hoạt động của các thương điếm này là công ty
Đông Ấn. Đó là công ty thương mại của một số nước châu Âu hoạt động ở
phương Đông (các nước Đông Á và Đông Nam Á). Về nguyên tắc, đó là công
ty của những tập đoàn tư bản doanh nghiệp tư nhân, nhưng đồng thời cũng
được sự hỗ trợ rất lớn về nhiều mặt của chính phủ. Các công ty này có
chức năng: thám hiểm, thăm dò, bang giao chính trị, thực hiện buôn bán
và nếu cần thiết thì can thiệp quân sự và chiếm đất. Sự hoạt động của
các Công ty Đông Ấn thông qua hoạt động của các thương điếm đặt tại các
nước phương Đông mà người phương Tây muốn xâm nhập vào. Như vậy, Công ty Đông Ấn vàthương điếm giống
nhau vì đều là những cơ sở thương mại của các nước phương Tây đặt ở các
nước phương Đông nhưng khác nhau ở quy mô, phạm vi hoạt động. Một là cơ
quan mẹ (Công ty Đông Ấn) thực hiện chức năng cả về chính trị – kinh
tế. Một đóng vai trò như những chi nhánh (thương điếm), hoạt động thuần
về kinh tế, hỗ trợ cho hoạt động của cơ quan mẹ. (2). Charles B.Maybon, Những người châu Âu ở nước An Nam,
NXB Thế giới, Hà Nội, 2006, tr.38 (3). K.Hartsinck là giám đốc đầu tiên
(1637 – 1640). Giám đốc thứ năm (1659 – 1663) Henrik Baron đã lấy một
người vợ Việt, sinh ra Samuel Baron, sau này gia nhập quốc tịch Anh và
trở thành nhân viên Công ty Đông Ấn Anh, là tác giả của tập du ký nổi
tiếng Mô tả vương quốc Đàng Ngoài. (4). Xin xem thêm: Hoàng Anh Tuấn, Mậu dịch tơ lụa của Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Ngoài, 1637 – 1670, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3+4/2006 (5). Li Tana, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999, tr.74 (6). Charles B.Maybon, Sđd, tr.38 (7). W.Dampier, Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, NXB Thế giới, Hà Nội, 2006, tr.67
(8). A.Farrington, Pho Hien – the centre of international commerce (XVII – XVIII), Hà Noi, 1994, p.137 (9). Charles B.Maybon, Sđd, tr.53 (10). Dẫn theo: Nguyễn Mạnh Dũng, Về hoạt động của công ty Đông Ấn Pháp với Đại Việt (nửa cuối thế kỷ XVII – giữa thế kỷ XVIII), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9/2006, tr.56 (11). Dẫn theo: Trần Thị Vinh, Nhà nước Lê Trịnh đối với nền kinh tế ngoại thương ở thế kỷ XVI – XVIII,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12/2007, tr.32 (12). Dẫn theo: Trần Thị
Vinh, Sđd, tr.32-33 (13). Dẫn theo: Trần Thị Vinh, Sđd, tr.33 (14). Dẫn
theo: Trần Thị Vinh, Sđd, tr.33 (15). Hoàng Anh Tuấn, Sđd, tr.56-57
——
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Charles B.Maybon, Những người châu Âu ở nước An Nam, NXB Thế giới, Hà Nội, 2006, 301 trang.
2. Charles B.Maybon, Thương điếm Anh ở Đông Kinh thế kỷ XVII (1672 – 1679), NXB Thế giới, Hà Nội.
3. Nguyễn Mạnh Dũng, Về hoạt động của công ty Đông Ấn Pháp với Đại Việt (nửa cuối thế kỷ XVII – giữa thế kỷ XVIII), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9/2006, tr.51 – 64.
4. Jean Baptiste Tavernier, Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài, NXB Thế giới, Hà Nội, 2005, 106 trang.
5. Pho Hien – the centre of international commerce in the XVIIth – XVIIIth centuries, The Gioi Publicsher, Ha Noi, 1994, 262 pages.
6. Lê Nguyễn, Xã hội Đại Việt qua bút ký của người nước ngoài, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2007, 207 trang.
7. Trần Thị Vinh, Nhà nước Lê – Trịnh đối với nền kinh tế ngoại thương ở thế kỷ XVI – XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12/2007, tr.25 – 35.
8. W.Dampier, Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, NXB Thế giới, Hà Nội, 2006, 121 trang.
Nguồn: http:36phophuong.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét