Theo “Báo cáo kinh tế vĩ mô năm 2012” của Nhóm tư vấn chính sách - Ủy ban kinh tế
của Quốc hội, những bất ổn vĩ mô của năm 2011 và dự báo khó khăn kinh tế năm
2012 một phần là do những yếu tố khách quan bên ngoài khi Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu hơn vào môi trường cạnh tranh toàn cầu với nhiều biến số bất định,
đồng thời các điều kiện về tự nhiên, môi trường và biến đổi khí hậu cũng trở
nên bất thường và bất lợi hơn. Mặc dù vậy nguyên nhân mang tính nền tảng là do
mô
hình tăng trưởng cũ được duy trì quá lâu, tạo ra những điểm yếu về cơ cấu và
mâu thuẫn nội tại gay gắt trong nền kinh tế. Mô hình tăng trưởng hướng
tới xuất khẩu chủ yếu dựa vào các yếu tố theo chiều rộng sử dụng nhiều vốn và
lao động đã đến giới hạn; áp dụng kinh tế thị trường chưa đầy đủ; chưa hình
thành cơ chế cạnh tranh tích cực phát huy nguồn lực của các thành phần kinh tế;
các động lực tăng trưởng theo chiều sâu chưa được cải thiện để trở thành động
lực phát triển; cơ cấu kinh tế chậm đổi mới để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh,
bền vững của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ủy ban Kinh tế
đã tổ chức Hội thảo khoa học “Kinh tế Việt Nam: Những vấn đề đặt ra trong trung
và dài hạn” vào tháng 2/2011 và đề xuất một “chủ thuyết phát triển kinh tế” riêng cho Việt Nam trong đó ổn
định kinh tế vĩ mô là ưu tiên hàng đầu và xuyên suốt với hai điểm mấu
chốt là:
Thứ nhất, cần
đổi mới tư duy có tính hệ thống đã tồn tại từ lâu và nay đã chứng tỏ không
còn phù hợp, là nguyên nhân cơ bản tạo ra những yếu kém nội tại của nền kinh
tế. Cần nhận thức rõ rằng cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh
hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực, chấm dứt hẳn những tư duy kế
hoạch tập trung, thiên về mệnh lệnh hành
chính khi hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Vai trò của Nhà nước
cũng cần phải xác định lại, trong đó phải kiên định với nguyên tắc “Nhà
nước chỉ làm những gì mà khu vực tư nhân không muốn làm hoặc không thể làm khi
đã được tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ từ phía Nhà nước”. Vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước không nên
hiểu và diễn giải là phải giữ vị trí chi phối trong các ngành kinh tế và lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế và độc quyền trên
nhiều lĩnh vực; không nên sử dụng DNNN là công cụ để Nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hai là, xây
dựng các thể chế phù hợp, trong đó đặc biệt quan trọng là quyền
sở hữu và cạnh tranh bình đẳng, cũng là điều kiện quan trọng để các
nguồn lực trong nền kinh tế được phân bổ một cách hiệu quả, qua đó giúp cơ cấu
kinh tế thay đổi theo hướng hiệu quả, bền vững và có tính cạnh tranh. Cần sửa
đổi Hiến pháp 1992, bắt đầu từ các định hướng chính sách đối với các thành phần
kinh tế, chế độ sở hữu, các quyền tự do kinh doanh của người dân và cơ cấu trúc
tổ chức bộ máy nhà nước thực thi quyền lực công cộng. Sửa đổi các đạo luật về
tổ chức các cơ quan quyền lực nhà nước, trên thiết kế đại cương của bản Hiến pháp
sau khi được sửa đổi, và nhất là nâng tầm cơ quan dân cử có một vai trò đáng
kể hơn. Sửa đổi Luật Đất đai 2003 để thiết kế lại những quy định tạo ra
một chế độ sở hữu minh bạch, rõ ràng, được bảo hộ chặt chẽ. Bổ sung đạo luật về
quyền sở hữu nhà nước đối với DNNN và phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
hay đạo luật về thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với DNNN và phần vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp để thực hiện một cách có hiệu quả vai trò của DNNN.
Chương
7. Đổi mới và cải cách thể chế của Báo cáo này đã phân tích:
“Ở Việt Nam chính thể
chế đã cho phép hình thành và ra đời kinh tế thị trường, cho phép hội nhập quốc
tế, cho phép ra đời và hình thành khu vực kinh tế tư nhân. Thể chế nào thì
doanh nghiệp ấy, các mặt mạnh và yếu của doanh nghiệp nhà nước, tư nhân của
Việt Nam
hiện nay đều do thể chế tác động đến”
“Cần có thay
đổi mạnh mẽ từ hệ thống chỉ tiêu, hệ thống đánh giá, kế hoạch hóa mới thay
đổi được mô hình tăng trưởng, mới tạo cơ hội cho mỗi địa phương phát triển phù
hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của mình”
“Thực tế mất ổn định kinh tế vĩ mô
của Việt Nam trong thời gian qua hoàn toàn bác bỏ vai trò là công cụ “ổn định
kinh tế vĩ mô” của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Nếu các tập
đoàn kinh tế nhà nước, công ty nhà nước là công cụ hữu hiệu để ổn định kinh tế
vĩ mô thì tại sao tình hình kinh tế vĩ mô mất ổn định gay gắt, kéo dài như hiện
nay?”
“Có thể nói
quan điểm “kinh tế nhà nước là chủ đạo” đang bị các nhóm lợi ích tận dụng triệt
để cho lợi ích của một số cá nhân có liên quan. Đây là miếng đất mầu mỡ để tạo
ra các mối “quan hệ” vây quanh các tập đoàn và tổng công ty nhà nước nẩy nở và
phát triển”
“Chính sách
coi “kinh tế nhà nước là chủ đạo” trong thực tế dẫn đến sự chèn ép trong thực
tế đối với khu vực kinh tế tư nhân trong nước trong khi khu vực này cần mau
chóng mạnh lên để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đang xâm nhập vào
kinh tế Việt Nam theo các cam kết hội nhập và cạnh tranh
quyết liệt với các doanh nghiệp Việt Nam”
“Cùng với môi trường kinh doanh đòi
hỏi mức đầu tư rất cao của khu vực tư nhân về thời gian và tiền bạc cho thiết
lập và duy trì các mối quan hệ. Doanh nhân phải lo đến thăm người bệnh, dự đám
giỡ, đám tang, đám cưới, chúc Tết của các quan chức lớn, nhỏ, v.v… để giữ mối
quan hệ. Thực trạng này đã dẫn đến sự ra đời và lớn mạnh nhanh chóng của những
“đại gia” tư nhân lớn, nhỏ ở Việt Nam, phất lên nhanh chóng không do
có tiến bộ khoa học - công nghệ, không do tăng năng suất lao động hay đóng góp
vào bảo vệ môi trường, đóng
góp cho phát triển kinh tế - xã hội mà chủ yếu do khai thác tài nguyên đất đai,
khai thác gỗ, mỏ, biển, v.v...”
“Trong thực tế, lạm dụng quy định
trong Luật Đất đai, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách và các luật khác liên quan
đã làm cho các quan chức có liên quan giàu lên nhanh chóng mà không có đóng góp
gì cho ngân sách, cho tiến bộ xã hội. Trái lại, sự bất bình đẳng trong xã hội tăng
lên, khiếu kiện về đất đai không được giải quyết thỏa đáng, biến thành những
xung đột xã hội gay gắt. Trong quyền sở hữu về đất đai của nhà nước đã được
trao cho nông dân năm quyền cụ thể như quyền sử dụng, quyền thừa kế, quyền thế
chấp, v.v..., vì vậy không thể tách bạch giữa quyền sở hữu nhà nước và quyền sử
dụng của nông dân. Thay đổi tư duy, nhìn nhận quyền sử dụng đất đai của tư nhân
như những bộ phận trong quyền sở hữu nhà nước một cách hợp lý và giám sát chặt
chẽ các quyền liên
quan đến sở hữu là đòi hỏi cấp bách để sử dụng có hiệu quả tài nguyên, giải
quyết thỏa đáng xung đột lợi ích giữa nông dân và nhà đầu tư, giảm căng thẳng
và xung đột xã hội”
“Việc thiết kế
và vận hành một bộ máy quyền lực ngày càng phình to, xa dân, kém hiệu quả và
kém hiệu lực, không theo nguyên tắc “quyền lực phải được giám sát”, không công
khai minh bạch là nguồn gốc sâu xa dẫn đến tham nhũng, lạm dụng chức quyền vì
tư lợi, làm thoái hóa, biến chất bộ máy. Điều này thể hiện rất rõ trong hoạt
động của bộ máy nhà nước cũng như trong cuộc sống hàng ngày của người dân và doanh
nghiệp cũng như trong các so sánh quốc tế. Sự thật là gánh nặng chi phí để tuân
thủ luật pháp và các quy định của bộ máy hành chính ở nước ta đang đè nặng lên
người dân và doanh nghiệp. Nhiều quy định của luật pháp và cách hành xử của
viên chức nhà nước nhằm tận thu của người dân và doanh nghiệp dưới dạng thu chính
thức, hợp pháp và phi chính thức,
bất hợp pháp. Nếu cộng tất cả các khoản lót tay, phong bì mà ô tô vận tải, ô tô
khách, người dân phải nộp cho cảnh sát (ngoài khoản thu hơn 2.500 tỉ nộp ngân
sách), người dân phải nộp cho nhà trường, bệnh viện, công sở, v.v… thì chi phí
để nuôi bộ máy cao hơn gấp nhiều lần những con số chính thức đã được công bố.
Cần làm rõ
thực trạng này và phải cải cách bộ máy và hệ thống chính trị theo nguyên tắc
quyền lực phải được giám sát, phải có trách nhiệm giải trình, hạn chế tối đa sự
độc quyền về quyền lực (như điều tra, giam giữ, quản lý nhà tù), thực hiện độc
lập tư pháp, toàn án chỉ tuân thủ pháp luật, hiến pháp, nghiêm trị mọi hành
động can thiệp, bao che hay trù dập, lạm dụng chức quyền ức hiếp, đàn áp người
dân. Sửa đổi, bãi bỏ nhưng quy định đã lỗi thời, hạn chế quá đáng các quyền tự
do, dân chủ của người dân như cho phép giam giữ và cải tạo hành chính không thông
qua xét sử tại toàn án. Tôn trọng quyền con người của những phạm nhân bị giam giữ,
thực hiện kiểm tra, giám sát độc lập với nhà tù, trại giam hiện đã có quy mô
rất lớn. Xây dựng bộ máy theo nguyên tắc công khai, minh bạch trong tất cả các
khâu, các hoạt động có liên quan đến người dân, thường xuyên duy trì quan hệ
đối thoại lấy ý kiến của người dân về tất cả các văn bản luật pháp, quy định có
liên quan đến người dân. Bộ máy nhà nước, giới cầm quyền phải cùng chia sẻ lợi
ích với dân, không cho phép hình thành một bộ máy đặc quyền, đặc lợi, sống cách
biệt với dân, đè đầu, cưỡi cổ người dân.
Một bộ máy như vậy, cần phải đào thải và chắc chắn sẽ bị nhân dân đào thải. Các
nghiên cứu mới đây (xem Acemoglu) cho thấy chính thể chế, bộ máy nhà nước là
nguyên nhân dẫn đến sự giàu có hay nghèo khổ của các dân tộc. Cải cách thể chế
là khâu then chốt nhất để thúc đẩy cải cách kinh tế và tiến bộ xã hội ở Việt Nam
hiện nay”.
“Sớm ban hành
Luật về hội, sửa đổi Luật Báo chí nhằm tạo ra một không gian tranh luận bình
đẳng vì lợi ích dân tộc, khuyến khích các hoạt động phản biện xã hội theo luật
pháp, bảo đảm quyền tự do, dân chủ đã được hiến định của người dân. Xã hội loài
người đã thay đổi rất mạnh mẽ, nhanh chóng, trở nên rất đa dạng và phức tạp.
Công nghệ thông tin, truyền thông,
Internet đã xóa bỏ độc quyền thông tin, độc quyền chân lý, che dấu sự thật. Một
xã hội muốn phát triển phải là xã hội cởi mở, bao dung, tạo ra cơ hội phát
triển bình đẳng cho mọi người, chia sẻ lợi ích công bằng với đóng góp của mỗi
thành viên trong xã hội, thực sự thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân, không
phân biệt chính kiến, tôn giáo, sắc
tộc, quá khứ, thành phần giai cấp ở trong nước hay ngoài nước, thống nhất trong
lợi ích dân tộc, xây dựng đất nước”.
“Acemoglu và
Robinson (giáo sư Daron Acemoglu và giáo sư James Robinson đồng tác giả tác
phẩm “Vì sao có những quốc gia thất bại, nguồn gốc của quyền lực, thịnh vương
và nghèo đói”) lập luận rằng, nếu một chế độ tước đoạt lên nắm quyền, tức là quyền lực chính trị bị tập trung trong
một nhóm nhỏ thì không có sự thịnh vượng hay quyền tư hữu nào có thể cứu
đất nước đó khỏi kết cục suy tàn vì
quyền sở hữu có thể bị thao túng. Nếu quyền lực chính trị có sự tham gia rộng rãi
của quần chúng thì thể chế chính trị và kinh tế có thể mang lại sự thịnh vượng
và phúc lợi cho đông đảo quần chúng.
Lập luận của
họ là mức thịnh vượng hiện đại đó dựa trên những nền tảng chính trị. Sự thịnh
vượng gần như do đầu tư và sáng tạo tạo ra, nhưng đây là những hành vi của niềm
tin: các nhà đầu tư và nhà sáng tạo phải có những lý do tin cậy để nghĩ rằng,
nếu thành công, họ sẽ không bị những kẻ
quyền thế cướp bóc. Để chính thể cung cấp bảo đảm như vậy, phải có hai điều kiện: phải
giữ quyền lực tập trung và các thiết chế quyền lực phải dân chủ. Nếu
không có quyền lực tập trung, sẽ sinh rối loạn và không tạo điều kiện cho đầu
tư và kinh doanh”
Cuối cùng Báo cáo kết luận:
“Đổi mới tư
duy và thể chế kinh tế là khâu then chốt để thực hiện tái cấu trúc kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
phù hợp với xu thế tăng trưởng xanh, bền vững của thế giới. Quá trình này không
tốn kém về tài chính, không cần đầu tư vốn lớn nhưng đòi hỏi quyết tâm chính trị cao
để vượt qua được những nhóm lợi ích và tư duy nhiệm kỳ. Với tư duy mới và thể
chế mới, năng lực mới, quá trình tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam sẽ đưa nền kinh tế
Việt Nam sang một giai đoạn phát triển mới”
Toàn văn báo cáo, tải tại: http://ecna.gov.vn/ct/bctk/Lists/BaoCaoThongKe/View_Detail.aspx?ItemID=23

Vấn đề cuối cùng được đặt ra là: làm sao để có quyết tâm chính trị cao??
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét