TÌM HIỂU LỊCH SỬ VỀ NHÓM NGŨ LONG
(Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành).
Phan Văn Trường, nhà cách mạng cầm đầu nhóm Ngũ Long, đã hết sức giúp Phan Châu Trinh khi ông đến Pháp, sau này ghi lại trong hồi ký:
"Vị nhân sĩ này [Phan Châu Trinh] tượng trưng cho xã hội Annam xưa. Ông ra vào văn phòng của Bộ Thuộc Địa như một nhân vật được ưu ái tín nhiệm (personna gratta), ông trình bày những quan điểm chính trị, đặc biệt xin ân xá cho những người bạn cùng cảnh ngộ còn ở trong tù, nhưng không bao giờ ông nhận được trả lời ngoài sự im lặng khinh bỉ. Sự chăm sóc hời hợt của chính quyền thuộc địa lúc đầu, lạnh dần để cuối cùng chuyển sang ác cảm và thù nghịch"[12].
Nguyễn An Ninh, khi trở lại Pháp năm 1925 để đón Phan Châu Trinh về nước, cũng đã bực bội than: ổng chả chịu học tiếng Pháp gì cả. Ở Pháp mười lăm năm mà không học tiếng Pháp. Hơn một tháng giời trên tàu thủy ổng chỉ ôm mấy cuốn sách chữ nho. Phan Châu Trinh còn phản đối cả việc nhóm trẻ viết bài chống Pháp ký tên Nguyễn Ái Quốc, cho là vô bổ. Ông không thể hiểu vấn đề dân chủ một cách tường tận qua những tân thư của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, bằng những nhà tân học, tiếp nhận dân chủ, nhân quyền, qua các triết gia thời kỳ Ánh Sáng của Pháp.
Ở thời điểm 1937, thế giới đã tân tiến lắm. Sự tranh đấu cũng phải mô-đéc: Phải tranh đấu công khai bằng ngòi bút, trên báo. Và như vậy phải có tài viết và có kiến thức sâu rộng về những việc đem ra luận bàn.
Hình thức tranh đấu này, đã bắt đầu từ năm 1912, tại Pháp với Phan Văn Trường, thủ lãnh nhóm Ngũ Long, cùng với Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh sau này
* Tranh đấu hiện đại: Phan Văn Trường và nhóm Ngũ Long
Sau khi các phong trào tranh đấu của nhóm cựu học Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Đông Kinh Nghiã Thục... thất bại, cuộc tranh đấu hiện đại bắt đầu với Phan Văn Trường (1878-1933), từ năm 1912, tại Pháp với Hội Đồng Bào Thân Ái do ông sáng lập.
Nhưng phong trào cách mạng bất bạo động này, cho đến nay, rất ít người Việt Nam biết đến. Chúng tôi đã viết về hoạt động của Phan Văn Trường và nhóm Ngũ Long trong cuốn Nhân văn Giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc[13], ở đây chỉ xin tóm tắt những yếu tố chính:
Phan Văn Trường sinh năm 1878, tại làng Đông Ngạc, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), học trường Dòng, trường Thông Ngôn, rồi làm phán sự ở Toà sứ. Năm 1908, đậu vào ngạch tham tá, được gửi sang Paris làm giáo sư phụ giảng tiếng Việt tại trường Ngôn Ngữ Đông Phương và học Luật. Nhập quốc tịch Pháp năm 1911, cùng năm này, Phan Châu Trinh và con trai được chính quyền bảo hộ chấp nhận cho sang Pháp.
Năm 1912, Phan Văn Trường đỗ cử nhân luật, vào luật sư đoàn, tập sự tại toà Thượng thẩm Paris, và bắt đầu đấu tranh chống Pháp.
Năm 1912, Phan Văn Trường lập Hội Đồng Bào Thân Ái tại Paris; cùng với Phan Châu Trinh, là hội người Việt Nam yêu nước đầu tiên tại hải ngoại. Phan Văn Trường luôn luôn đi kèm và dịch cho Phan Châu Trinh. Ông sửa và dịch bản Trung Kỳ dân biến thỉ mạt của Phan Châu Trinh sang tiếng Pháp, gửi cho Hội Nhân Quyền, nội dung trình bày với chính phủ Pháp nỗi khổ của người dân Trung kỳ, vì sưu cao thuế nặng, phải nổi lên chống lại và đã bị đán áp; mong chính phủ Pháp vì từ tâm, nghĩ lại, áp dụng chính sách khoan hồng. Bài này Phan Văn Trường gửi đăng báo của Hội Nhân Quyền ngày 31-10-1912, và ông chuyển đến Bộ Thuộc địa ngày 25-9-1912. Đầu năm 1913, toàn quyền Albert Sarraut hứa thả dần tù nhân chính trị trong vụ Trung Kỳ dân biến.
Nhưng biện pháp trừng phạt Phan Văn Trường cũng bắt đầu: Trường Ngôn Ngữ Đông Phương được lệnh phải sa thải ông, và gia đình ông ở Hà Nội trực tiếp bị liên lụy: Thừa dịp Quang phục hội (của Phan Bội Châu) ném bom giết chết hai sĩ quan Pháp tại Hà Nội tháng 3-1913; mật thám bắt anh em Phan Văn Trường: Phan Tuấn Phong (anh cả) và Phan Trắc Cư, con trai 13 tuổi, cùng Phan Trọng Kiên (em). Tìm thấy thư từ liên lạc với ông Trường, hai ông Phong và Kiên bị kết án chung thân biệt xứ vì tội "giết quan tư Chapuis và Montgrand", bị đầy sang Nouvelle Calédonie cùng với Cư, 13 tuổi.
Ngày 13-3-1914, Phan Văn Trường diễn thuyết tại trường Cao đẳng Xã hội (École des Hautes Études Sociales), đề tài: Thỉnh nguyện của người bản xứ (Les revendications indigènes), phê phán chính sách thực dân từ nguồn cội, thời La Mã đã đi chinh phục các nước khác; bài diễn thuyết này làm phe thực dân nổi giận, và cũng là bài mở đầu cho bản Thỉnh nguyện của dân tộc Annam (Les revendications du peuple annamite), ông sẽ thảo năm 1919, năm năm sau.
- Tháng 9-1914, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt vì tội "quấy rối trị an", bị tù đến tháng 7-1915. Hội Đồng Bào Thân Ái bị giải tán.
Ra tù, Phan Văn Trường được gửi xuống công binh xưởng Toulouse làm thông dịch viên cho lính thợ, ông cùng anh em Nguyễn Thế Truyền (lúc đó Truyền đang học kỹ sư hoá học), đều là sinh viên: Nguyễn Thế Song (em), Nguyễn Thế Phu (chú) Nguyễn Thế Tắc (em họ) tổ chức nhóm An Nam Yêu Nước với những sĩ quan và hạ sĩ quan người Việt, tại Toulouse.
Năm 1918, Nguyễn An Ninh sang Pháp và tháng 6-1919, Nguyễn Tất Thành, từ Anh sang Paris, cùng nhập tổ chức. Họ được gọi là nhóm Ngũ Long, gồm có: Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành, thường hội họp ở nhà Phan Văn Trường, số 6 villa des Gobelins, Paris 13.
- Tháng 6-1919, Phan Văn Trường viết bản Les revendications du peuple annamite (Thỉnh nguyện của dân tộc Annam) giao cho Nguyễn Tất Thành đem đến Hội nghị Hoà bình đang họp tại Versailles. Ngày 18-6-1919, bản thỉnh nguyện được đăng trên báo L'Humanité, dưới tựa đề: Les droits des peuples (Quyền của các dân tộc); nội dung yêu cầu tám điểm:
1- Đại xá tất cả tù binh chính trị bản xứ.
2- Cải tổ luật pháp Đông Dương: bảo đảm quyền lợi cho người bản xứ như người Âu.
3- Tự do báo chí và tự do tư tưởng.
4- Tư do lập hội và hội họp.
5- Tự do di dân và du lịch ra nước ngoài.
6- Tự do giáo dục và xây dựng trường kỹ thuật và thực nghiệp cho người bản xứ ở các tỉnh.
7- Thay thế chế độ pháp lý.
8- Có đại diện dân biểu bản xứ ở nghị viện Pháp.
Ký tên: Thay mặt nhóm An Nam Yêu Nước, Nguyễn Ái Quấc.
Đây là văn bản đầu tiên của người Việt đòi tự do dân chủ, gửi đến chính quyền Pháp và Đồng minh, được báo chí chống thực dân hỗ trợ, gây tiếng vang lớn.
Kể từ mùa thu năm 1919, nhóm An Nam Yêu Nước có cột thường trực trên các báo cánh tả ở Paris, ban đầu ký tên Nguyễn Ái Quấc, sau đổi thành Nguyễn Ái Quốc, viết những bài ngắn đả kích chế độ thực dân dưới dạng châm biếm, do Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh là ba người giỏi tiếng Pháp, thay nhau viết, đặc biệt giọng Nguyễn Thế Truyền rất hóm hỉnh. Độc giả rất thích. Đồng thời họ thay phiên nhau diễn thuyết tại các diễn đàn tự do khu La tinh, chủ đích đánh vào lòng tự hào của dân tộc Pháp, kêu gọi người Pháp bãi bỏ chính sách thực dân. Trong thời kỳ này Phan Văn Trường bị Albert Sarraut, lúc đó đã về Pháp, tìm mọi cách truy bách. Nhưng sự tranh đấu trên đất Pháp, không mang lại kết quả thực tiễn, phe thực dân vẫn thắng thế, lại không đánh động được dư luận trong nước. Họ bèn tìm cách khác:
- Nguyễn An Ninh về nước năm 1922, lập báo La Cloche fêlée (Chuông rè) ở Sài Gòn.
- Phan Văn Trường về nước năm 1923, lập báo L'Annam ở Sài Gòn.
- Nguyễn Tất Thành đi Nga năm 1923, ông còn dùng tên Nguyễn Ái Quốc trong một thời gian trước khi lấy các bí danh khác.
- Phan Châu Trinh về nước năm 1925. Mất năm 1926, tại Sài Gòn.
- Nguyễn Thế Truyền ở lại, tiếp tục hoạt động tại Pháp.
Phan Văn Trường về nước làm báo La Cloche Fêlée cùng Nguyễn An Ninh, sau mở rộng với nhóm đệ tứ Tạ Thu Thâu, ra báo L'Annam năm 1926. Ông bị kết án 2 năm tù vì báo L'Annam đăng bài kêu gọi hội Quốc Liên đòi quyền độc lập cho Việt Nam[14], và cổ động làm lễ truy điệu Lương Văn Can. Năm 1928, ông sang Paris chống án. Toà phá án y án, Phan Văn Trường vào tù tháng 6-1929, luật sư Marius Moutet, bạn ông, vận động ân xá, được trả tự do, tháng 2-1930, ông trở về Sài Gòn, lúc đó Nguyễn An Ninh đã bị tù lần thư hai và toàn quyền Pasquier đang đàn áp đẫm máu Việt Nam Quốc Dân Đảng và phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Phan Văn Trường phải ngừng hoạt động, mở phòng cố vấn pháp luật. Năm 1933, ông ra Bắc thăm gia đình và mất tại Hà Nội vì bệnh ung thư gan.
Báo Phong Hóa số 44 (28-4-33), đăng tin buồn, dè dặt, mà đầy ý nghiã:
"Cụ Phan Văn Trường tạ thế chiều hôm 22 Avril tại phố Gambetta số nhà 25. Năm nay cụ 58 tuổi. Theo như lời dặn cuối cùng của cụ, đám tang sáng hôm 23 cử hành một cách rất đơn giản và tuy tang gia không báo tin buồn, không gửi giấy cáo phó mà người đi đưa đám cũng đông lắm. Linh cữu cụ an táng tại làng Sét thuộc huyện Thanh Trì.
Phong Hóa đồng nhân xin có lời trân trọng kính viếng cụ và chia buồn cùng tang gia".
Hai năm sau, Ngày Nay số 9 (23-4-35) đăng lời Tưởng niệm Trạng sư Phan Văn Trường kèm theo bức ảnh trên đây, lời in đậm, cân nhắc từng chữ:
"Trạng sư Phan Văn Trường, sinh năm 1887, mất ngày 20 tháng tư năm 1934, đến nay vừa đúng một năm. Ông đỗ luật khoa tiến sĩ, rồi làm trạng sư, làm báo. Suốt đời, lúc nào ông cũng tận tụy với công việc chung. Cuộc đời xã hội và chính trị của ông rất hoạt động".
Tờ báo in nhầm: mất ngày 20 tháng tư năm 1934, thật ra là: ngày 22 tháng tư năm 1933.
Ba chữ công việc chung ở đây, có nghiã là việc chống Pháp. Phan Văn Trường là nhà cách mạng đầu tiên chủ trương tranh đấu theo đường lối hiện đại, nhưng cho đến nay rất ít người biết đến ông. Nhưng phong cách và tư tưởng tranh đấu trong 20 năm của ông, đã ảnh hưởng đến nhóm Tự Lực văn đoàn.
Sử gia Pháp Pierre Brocheux, trong bài Phan Văn Trường, 1876-1933. Acteur d'une histoire partagée (Phan Văn Trường, 1876-1999. Người chủ động trong một lịch sử phân tranh, viết năm 2014[15], về Phan Văn Trường "người thày của nhà nho Phan Châu Trinh, khi ông Phan sống lưu đày ở Pháp từ 1911 đến 1926" (il fut le mentor du lettré Phan Châu Trinh lorsque celui-ci vécut exilé en France de 1911 à 1926), như sau:
"Cùng với bốn bạn đồng hương Phan Châu Trinh, Nguyễn Tất Thành (nổi tiếng với tên Hồ Chí Minh), Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường lập nhóm gọi là Ngũ Long, trong thời kỳ ông ở Pháp (1908-1925). Nhưng trái ngược với hai người đầu, ông không được hiện diện trên thánh miếu của dân tộc Việt Nam, không cả sự được biết đến và nổi danh như hai vị đồng hương kia. Một người giấu tên, cho biết, có một phố duy nhất -không phải đại lộ- ở thành phố Hồ Chí Minh- mang tên ông. Chẳng hay ông có một lăng mộ, một bia đá, hay một tấm bảng truy niệm, ở một thành phố lớn nào chăng? Trong nước Việt Nam hiện thời, danh tiếng ông và Nguyễn An Ninh, đã bị lu mờ trước Hồ Chí Minh, riêng Nguyễn Thế Truyền, đã chịu thiệt thòi vì chống cộng và chống nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nên bị loại khỏi thiên anh hùng ca dân tộc."[16]
* Nguyễn Thế Truyền
Nguyễn Thế Truyền (1898-1969), là một trường hợp đặc biệt: được mẫu quốc nuôi để chống lại mẫu quốc.
Ông sinh ngày 17-12-1898 tại làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định, trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng, là cháu nội tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn, người đã bị bom của Phạm Văn Tráng (Quang Phục Hội của Phan Bội Châu) hạ sát ngày 12-4-1913. Nguyễn Thế Truyền được Dupuy, phó công sứ Pháp ở Thái Bình đem về Pháp du học khoảng 1908, 1910, lúc (10- 12) tuổi, học trường Parangon. Trường này có mục đích đào tạo những trẻ em thuộc địa thông minh để trở thành "công dân tốt", trung thành với mẫu quốc. Là học sinh xuất sắc, Nguyễn Thế Truyền được học bổng Alliance Française từ 1913 đến 1922, ông đã học kỹ sư hoá học, tiến sĩ, đậu cử nhân triết năm 1922. Trong thời kỳ này, ông về nước hai lần, học chữ Hán.
Nguyễn Thế Truyền gặp Phan Văn Trường từ hồi còn học trường Parangon, hoạt động chung từ thời ở Toulouse. Diễn thuyết, viết báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Khi các bạn đồng hành về nước, Nguyễn Thế Truyền ở lại hoạt động tại Pháp. Năm 1922 ông làm phó tổng thư ký hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale) kiêm chủ bút tờ Le Paria, và vào đảng Cộng sản. Ông thu thập tài liệu ở thuộc địa châu Phi và của lính thợ Việt Nam, do Phan Văn Trường ghi chép từ khi ở Toulouse, soạn thành tập Le procès de la colonisation (Bản án chế độ thực dân), viết tựa và đề tên tác giả Nguyễn Ái Quốc, Librairie du Travail phát hành tháng 5 năm 1925. Lúc đó, Nguyễn Tất Thành đã sang Nga được hai năm. Sau đó ông bỏ đảng Cộng sản, rời tờ Le Paria, lập tờ Việt Nam Hồn và đảng Annam Độc Lập.
Năm 1927, Nguyễn Thế Truyền về nước hoạt động, bị theo dõi, bị bắt năm 1933, nhờ hội chống Thực dân can thiệp mới được tha. Dân làng Hành Thiện, quê ông, ghi nhớ hai thành tích:
- Tát tổng đốc Vi Văn Định
- Kiện chính quyền bảo hộ[17].
Năm 1934, ông trở lại Pháp, hoạt động cho Liên minh chống chính sách thực dân (Fédération anticolonialiste) do Marius Moutet và Joseph Lagrosillière sáng lập năm 1935. Ông thành lập Tập Đoàn Đông Dương (Rassemblement Indochinoise) năm 1936, vận động những tổ chức nhân quyền bênh vực Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu... đang bị tù.
Tháng 6 năm 1936, ông gửi Thỉnh nguyện thư của dân Đông Dương lên chính phủ Pháp yêu cầu triệt hồi toàn quyền Robin về nước.
Năm 1937, ông làm Đại biểu của Uỷ ban Báo Giới Bắc kỳ tại Pháp (NN số 84). Năm 1938, ông trở về Việt Nam. Năm 1941, ông bị bắt cùng với em là Nguyễn Thế Song, bị đi đầy ở Madagascar, đến 1946, Marius Moutet mới can thiệp được cho hai anh em về nước. Ông mất năm 1969, tại Sài Gòn.
* Nguyễn An Ninh
Nguyễn An Ninh (1900-1943), sinh ngày 5-9-1900 tại Chợ Lớn. Học trường Tây từ nhỏ, nổi tiếng đánh Tây. Năm 1918, sang Pháp du học, vào nhóm Ngũ Long, diển thuyết và viết bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đậu cử nhân luật năm 1920. Về nước rồi sang lại Pháp, chuẩn bị luận án tiến sĩ. Là nhà cách mạng đầu tiên trong nhóm Ngũ Long quyết định về nước hoạt động, từ năm 1922, lập báo La Cloche Fêlée (Chuông rè). Ông bị bắt và bị tù tất cả 5 lần từ 1926 đến 1939:
Lần thứ nhất: ngày 20-3-26, bị kết án 18 tháng tù vì tội phá rối trị an, viết báo Chuông Rè, xúi dân làm loạn.
Lần thứ hai: tháng 9-28, bị kết án 3 năm tù vì tội lập Hội kín Nguyễn An Ninh, cuối năm 1930 được tha.
Lần thứ ba: tháng 4-36, bị bắt về tội viết báo La Lutte (Tranh Đấu) quy tụ nhóm đệ tứ Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử, Phan Văn Hùm, phá rối trị an; tháng 11-36, được tha.
Lần thứ tư: tháng 7-37, kết án 5 năm tù, 5 năm biệt xứ vì tội tổ chức biểu tình ở huyện Càn Long, xúi giục dân chúng nổi loạn. Tháng 1-39, được ân xá.
Lần thứ năm: ngày 5-10-39, đệ nhị thế chiến bùng nổ, ông bị bắt cùng với nhiều nhà cách mạng khác, tội phá rối trị án, xúi giục nông dân, thợ thuyền nổi loạn chống chính phủ... Bị kết án 5 năm tù, 10 năm biệt xứ. Nguyễn An Ninh mất tại Côn Đảo ngày 14-8-1943.
Theo TỰ LỰC VĂN DOÀN : VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG
25- Các phong trào tranh đấu hiện đại
(Thụy Khuê)
[11] Trong bài Tựa cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp của Thu Trang, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 8.
[12] Hồi ký Phan Văn Trường: Une histoire de conspirateurs annamites à Paris ou la Vérité sur L'Indochine (Một chuyện âm mưu của người Việt ở Paris hay Sự thật về Đông Dương), Nxb L' Insomniaque, Paris, trang 72).
[13] Xem Nhân văn Giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, từ chương 15 đến chương 20, nxb Tiếng Quê Hương, Hoa Kỳ, trang 424-482, hay trên mạng điện tử: thuykhue.free.fr .
[14] Bài của báo Việt Nam Hồn và đảng Annam Độc Lập của Nguyễn Thế Truyền, bên Pháp gửi về.
[15] In trên tạp chí Moussons, https://journals.openedition.org/moussons/3013
[16] Nguyên văn tiếng Pháp: "En compagnie de ses quatre compatriotes Phan Châu Trinh, Nguyễn Tất Thành (plus connu sous le nom de Hồ Chí Minh), Nguyễn An Ninh et Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trương formait le groupe dit des Cinq Dragons durant son séjour en France (1908-1925). Mais contrairement aux deux premiers d’entre eux, Phan Văn Trương ne figure pas au panthéon national du Viêt Nam, il n’a pas la même visibilité ni la même renommée que ses deux compatriotes. Un anonyme a fait remarquer qu’une seule rue – pas une grande artère – d’Hô Chi Minh-Ville porte son nom. Un mausolée, une stèle ou une plaque commémorative dans une grande ville du pays existent-ils ? Dans le Viêt Nam d’aujourd’hui, sa renommée, comme celle de Nguyễn An Ninh, a été éclipsée par celle de Hồ Chí Minh ; Nguyễn Thế Truyền, pour sa part, a beaucoup pâti de son opposition au communisme et à la République démocratique du Viêt Nam ; il a été mis en marge de l’épopée nationale".
[17] Xem: Đặng Hữu Thụ, Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, tác giả xuất bản, Paris 1993.
Ps: Từ bác Bùi Quang Minh